K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 4 2022

trình bài cái gì mới đc

20 tháng 4 2022

Câu 2. Trình bày các hiện tượng sóng, thủy triều, dòng biển.

 
19 tháng 3 2022

Nguyên nhân sinh ra sóng biển biển chủ yếu do gió, động đất ngầm dưới đáy biển sinh ra sóng thần. 

Thủy triều là hiện tượng nước biển có lúc dâng lên, lấn sâu vào đất liền, có lúc lại rút xuống, lùi tít ra xa.

Nguyên nhân sinh ra thủy triều là do sức hút của Mặt Trăng  Mặt Trời.

19 tháng 3 2022

+Nguyên nhân gây ra sóng là nhờ gió, gió nhẹ mặt nước lăn tăn, gió càng mạnh sóng càng lớn

+ Nguyên nhân gây ra thủy triều là sức hút của Mặt Trăng và Mặt Trời

+ Nguyên nhân gây ra dòng biển là nhiều con sông nhỏ, lớn đổ vào chỗ trũng của biển nên tạo ra dòng biển, có 2 loại dòng biển: dòng biển nóng và dòng biển lạnh

16 tháng 5 2016

Bạn chia từng câu đi .

16 tháng 5 2016

Bạn chia thành mỗi câu này là 1 câu . Tách riêng từng câu.

15 tháng 3 2022

Tham khảo

a) 

- Chủ yếu sử dụng chế độ tô thuế.

- Bắt cống nạp sản vật.

- Nắm độc quyền về sắt và muối.

b) Nhà Hán nắm độc quyền về sắt nhằm mục đích kìm hãm sự phát triển về kinh tế của đất nước ta, ngăn cản sự đấu tranh của nhân dân ta chống lại chúng ( Sắt là Kim loại sắc bén nhất để nhân dân ta tạo công cụ lao động  vũ khí chống lại kẻ thù ).

15 tháng 3 2022

Tham khảo

a) 

- Chủ yếu sử dụng chế độ tô thuế.

- Bắt cống nạp sản vật.

- Nắm độc quyền về sắt và muối.

b) Nhà Hán nắm độc quyền về sắt nhằm mục đích kìm hãm sự phát triển về kinh tế của đất nước ta, ngăn cản sự đấu tranh của nhân dân ta chống lại chúng ( Sắt là Kim loại sắc bén nhất để nhân dân ta tạo công cụ lao động  vũ khí chống lại kẻ thù ).

21 tháng 4 2022

Tham khảo:

1. Những biểu hiện cho thấy chính sách đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta đã thất bại: + Người Việt vẫn nghe – nói, truyền lại cho con cháu tiếng mẹ đẻ. + Những tín ngưỡng truyền thống như tục thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần tự nhiên… tiếp tục được duy trì.

2.  Tổ chức xã hội thay đổi rõ rệt: Quan lại đô hộ -> Địa chủ Hán và Hào trưởng Việt -> nông dân công xã -> nông dân lệ thuộc -> nô tì.

Những thế lực tầng lớp trên của xã hội bị chính quyền đô hộ chèn ép

Mâu thuẫn bao trùm xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền cai trị phương Bắc

Theo em, thành phần nông dân công xã trong xã hội sẽ lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa giành độc lập của người Việt vì đây là thành phần chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi chính sách cướp đoạt ruộng đất và tô thuế của phong kiến Bắc thuộc

16 tháng 3

Câu 1: Biểu hiện thất bại của chính sách đồng hóa

  • Tiếng Việt vẫn tồn tại, không bị Hán hóa hoàn toàn.
  • Phong tục, tín ngưỡng bản địa duy trì (thờ cúng tổ tiên).
  • Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc (Hai Bà Trưng, Lý Bí,…).
  • Ý thức dân tộc mạnh mẽ, nhân dân không chấp nhận đô hộ.

Câu 2: Cơ cấu xã hội và chuyển biến

Thời Văn Lang – Âu Lạc:

  1. Vua → Cai trị.
  2. Lạc hầu, Lạc tướng → Quản lý.
  3. Nông dân, thợ thủ công → Sản xuất.
  4. Nô tỳ → Phục dịch.

Thời Bắc thuộc:

  1. Quan lại phương Bắc → Thống trị.
  2. Lạc tướng, quý tộc bản địa → Suy yếu, bị đồng hóa.
  3. Nông dân, thợ thủ công → Bóc lột nặng nề.
  4. Nô tỳ → Tăng lên.

Lực lượng lãnh đạo khởi nghĩa: Quý tộc bản địa, tướng lĩnh, nông dân ưu tú vì họ có uy tín, bị áp bức và có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ.


25 tháng 12 2021

Vạn Lý Trường Thành

Dòng sông lớn (sông mẹ) ở vùng Ai Cập là:Hướng Đông Nam được xác định là:Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa trên Trái Đất là do:Lực làm lệch hướng của các vật chuyển động theo chiều kinh tuyến có tên gọi là:Em hãy trình bày hiện tượng ngày – đêm dài ngắn theo mùa. “Đường Greenwich được thành lập năm 1884, tại Hội nghị Kinh tuyến Quốc tế, tổ chức ở Washington DC. Nghị...
Đọc tiếp

Dòng sông lớn (sông mẹ) ở vùng Ai Cập là:

Hướng Đông Nam được xác định là:

Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa trên Trái Đất là do:

Lực làm lệch hướng của các vật chuyển động theo chiều kinh tuyến có tên gọi là:

Em hãy trình bày hiện tượng ngày – đêm dài ngắn theo mùa. 

“Đường Greenwich được thành lập năm 1884, tại Hội nghị Kinh tuyến Quốc tế, tổ chức ở Washington DC. Nghị quyết chính của hội nghị đó là: phải có một kinh tuyến duy nhất; đó là vượt qua Greenwich; đã có một ngày chung, và ngày đó sẽ bắt đầu vào lúc nửa đêm trung bình ở kinh tuyến ban đầu. Kể từ thời điểm đó, không gian và thời gian trên địa cầu của chúng ta đã được điều phối chung.Việc có một kinh tuyến gốc duy nhất mang đến cho các nhà lập bản đồ trên thế giới một ngôn ngữ bản đồ chung cho phép họ kết hợp các bản đồ của mình lại với nhau, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế và hàng hải.”(Theo greelane.com)

a. Em hãy cho biết đường kinh tuyến gốc được các nhà khoa học xác định vào năm nào và thuộc thế kỉ bao nhiêu? b. Theo em việc chọn đường kinh tuyến gốc có ý nghĩa như thế nào?

 

Đồng hồ tại Luân Đôn (Anh) là 7 giờ sáng ngày 12/11/2021. Vậy khi đó, ở thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) là mấy giờ, ngày nào? Biết rằng khu vực giờ gốc (GMT) của nước Anh là (0), Việt Nam là (+7).

 

Lăng mộ của pha-ra-ông Tu-tan-kha-mun được phát hiện ở Ai Cập vào năm 1922, Vậy tính đến nay (2021), lăng mộ đã được phát hiện cách ngày nay bao nhiêu năm? 

Em hãy nêu những chuyển biến về kinh tế vào cuối thời nguyên thủy.

giúp mình với

0
7 tháng 5 2021

Nội dung

Cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý

Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thời Trần

Thời gian

1075 - 1077

1258 - 1288

 

 

 

Đường lối kháng chiến

“Tiên phát chế nhân”

- Xây dựng hệ thống phòng ngự vững chắc.

- Chiến thuật “công tâm”: đánh vào tâm lí địch.

- Chủ động tiến công khi thời cơ đến.

- Kết thúc chiến sự bằng biện pháp mềm dẻo.

“Vườn không nhà trống”.

- Rút lui để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị cho trận chiến chiến lược.

- Tiêu diệt đoàn thuyền chở quân lương của giặc.

- Xây dựng trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng.

Những tấm gương tiêu biểu

Lý Thường Kiệt, Lý Thánh Tông, Tông Đản, Thân Cảnh Phúc,…

Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư,...

 

 

Ví dụ về tinh thần đoàn kết chống giặc

- Các tù trưởng chiêu mộ binh lính đánh trả các cuộc quấy phá, làm thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống.

- Các tù trưởng dân tộc ít người ở gần biên giới Việt - Tống đã cho quân mai phục những vị trí chiến lược quan trọng

- …

- Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, cất giấu lương thảo, của cải làm cho giặc thiếu thốn lương thực, tiêu hao sinh lực.

- Toàn quân, toàn dân phối hợp với nhau dựng trận địa trên sông Bạch Đằng.

- …

 

 

 

Nguyên nhân thắng lợi

- Tinh thần đoàn kết, ý chí độc lập tự chủ, truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc.

- Có sự lãnh đạo cùng chiến thuật tài tình của Lý Thường Kiệt.

- Nhà Tống đang trong thời kì khủng hoảng.

- Tinh thần đoàn kết của quân dân nhà Trần.

- Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến.

- Sự lãnh đạo của các vua Trần cùng các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải,… với chiến thuật đúng đắn.

- Tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân, nòng cốt là quân đội.

 

 

 

Ý nghĩa

- Đập tan ý chí xâm lược của nhà Tống.  Đất nước bước vào thời kì thái bình.

- Thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của các tầng lớp nhân dân.

- Góp phần làm vẻ vang thêm trang sử của dân tộc, để lại nhiều bài học kinh nghiệm chống ngoại xâm cho các thế hệ sau.

- Đập tan ý chí xâm lược của quân Mông - Nguyên, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

- Khẳng định sức mạnh của dân tộc.

- Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam.

- Để lại nhiều bài học về củng cố khối đoàn kết toàn dân.

- Làm thất bại mưu đồ thôn tính miền đất còn lại ở châu Á của Hốt Tất Liệt.


 

7 tháng 5 2021

thank Ly

8 tháng 4 2021

Chăm Pa (tiếng Phạn: चम्पा, Chữ Hán: 占婆 Chiêm Bà, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía tây của nước Lào ngày nay.

Qua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn A1 mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy ảnh hưởng của Ấn giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa.

Chăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục sau đó dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng.

Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:[2]

  • Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá.
  • Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các công trình bằng đá
  • Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn bản khác liên quan còn lại.

Vương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị "Trung ương tập quyền" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Ê đê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Kitô giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ bắc vào nam và ngược lại.

Theo sử thi người Chăm, dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía bắc và Chăm ở phía nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.

Thời tiền sử[sửa | sửa mã nguồn]

Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Mã Lai-Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo.

Văn hóa Sa Huỳnh[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Văn hóa Sa Huỳnh

Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồ đồng rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ cacbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.

Lâm Ấp (192 - 757)[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lâm Ấp

Theo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công[3]. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ[4]. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.[5]

Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura (Phật Thệ) thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo[6]. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.[7]

Đầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi. Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng khoảng thế kỷ 4-5.[8]

Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc[9]. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là đến năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là đến năm 657.[10]

Sách sử Trung Hoa như sách Thông điển còn ghi nhận một loạt các quốc gia phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ (Trà Kiệu), Ba Liêu (Châu Sa), Khuất Đồ Kiển (Kauthara)...

Hoàn Vương (757 - 859)[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Hoàn Vương

Vào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.[11]

Chiêm Thành (875 - 1471)[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Chiêm Thành

Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9 và 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva[12], với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn[13], đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Toa Đô (Sogetu) cầm đầu. Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.

Bức phù điêu mô t...

CÓ AI BIẾT KO