K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 10 2016

Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí- Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.

Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tác như sau:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thành:

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước - Nam Trân dịch)

Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.

 

Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe doạ bởi tư tưởng ngông cuồng kia.

Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!

Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí - Trần, khiến người đọc rưng rưng!

Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.


 

19 tháng 1 2022

Ngắn sao không trình bày vào vở đi 

19 tháng 1 2022

ngắn wá tời luôn áh 

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
25 tháng 12 2023

Đoạn văn tham khảo:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Nhịp điệu thơ cất lên một cách nhỏ nhỏ, khiêm tốn nhưng thật thiết tha, cảm động, sâu lắng. “ta làm” là điệp ngữ vang lên ở đầu các câu thơ như một khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, cống hiến nhiều nhất cuộc đời.

Hình ảnh đối ứng lặp lại ở đầu bài thơ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” là thể hiện mong ước cụ thể của nhà thơ được góp cái đó dù nhỏ bé nhưng có ích cho đời. là con chim hãy mang lại những âm thanh vang vọng, những tiếng hót say mê lòng người là nốt nhạc, nốt trầm trong bản nhạc nhưng không thể thiếu giàn hợp xướng, trong bản hòa ca tất cả mọi người.

19 tháng 11 2023

Hong chép mạng nha

Câu 1:

“Ngó lên nuộc lạt mái nhà

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”

Tình cảm của con cháu với ông bà của mình đó là một tình cảm huyết thống, thể hiện công lao to lớn của ông bà khi xây dựng gia đình. Cụm từ “ Ngó lên” ý nói trông lên thể hiện sự tôn kính của con cháu với ông bà. Hình ảnh cụ thể thể hiện sự gắn kết, kết nối tình cảm đó một cách bền chặt gắn bó nhất qua cụm từ “ Nuộc lạt mái nhà”. Tình cảm thật sâu đậm qua cặp quan hệ từ “ bao nhiêu- bấy nhiêu” gợi nỗi nhớ da diết của con cháu .Qua câu ca dao, nhắc nhở con cháu, dù đi đâu làm gì cũng nên nhớ về ông bà, cha mẹ, huyết thống của gia đình. Luôn biết ơn họ.

Câu 2: 

Anh em nào phải người xa

Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân

Yêu nhau như thể tay chân

Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”

tình cảm anh em trong gia đình là tình cảm không bao giờ có thể tách rời, mất đi được. Vì họ cùng một mẹ sinh ra, cùng được cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ từ khi còn cất tiếng khóc oe oe cho đến khi trưởng thành và mãi về sau. Vậy nên, tình cảm đó được diễn tả một cạnh cụ thể . Lời khẳng định anh em không phải người xa lạ gì. Bởi cùng chung máu thịt. Nhưng chữ “cùng, chung, một” để diễn tả anh em là hai mà như là một, cùng một cha mẹ, cùng chung sống trong một gia đình, được cha mẹ nuôi dưỡng. Sử dụng hình ảnh tay, chân là những bộ phận rất quan trọng, luôn gắn liền với cơ thể, có quan hệ mật thiết với nhau để nói đến sự bền chặt của tình cảm anh em trong một gia đình. Lấy tay, chân để so sánh ví với tình anh em để thể hiện tình cảm anh em trong gia đình gắn bó thân thiết như chân với tay, không thể xa rời phải biết nương tựa nhau. Bài ca dao cũng nhắc nhở anh em trong gia đình phải hòa thuận để cha mẹ vui lòng, biết thương yêu, đùm bọc nhau “ Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”

3 tháng 11 2016

Khi nói đên Bà Huyên Thanh quan thì ko thể ko nhắc tơi thơ ca của Bà Bà đã có những dóng góp ko nhỏ cho nên thơ ca trung đai Viêt Nam Và trong chương trinh ngữ văn lớp 7 em đã dc hoc bài qua đeo ngang do bà sáng tác
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

_____________________________


__________________________

TRong bài tác giả đã miêu tả cảch vào Đèo Ngang lúc xế chiều là một bài thơ đương luât viêt bằng chữ Nôm

Câu mơ đâu tg đã giới thiêu đc cảnh vào Đèo Ngang

Bươc tới Đèo Ngang bóng xế tà

lúc này la thơi gian châp choang tôi nhưng tác jả vẩn đủ để cảm nhân bưc tranh thuỷ măc núi đèo bát ngát

"Cỏ cây chen lá lá chen hoa"

Điêp tư chen làm cho cái hoang dại choáng ngơp ko jan Trên bối cảnh bao la ây thấp thoáng có sư song của con người nhưng còn mờ nhạt xa vời

Lom khom dưới núi tièu vài chú

Hai câu thơ này tg đã đùng biện pháp đảo ngữ Động từ lom khom đổi lên trc danh từ tiều vài chú cho em cảm nhận đc rằng con ngươi càng nhỏ bé hơn trươc thiên nhiên bao la rổng lớn này

Lác đác bên sông chơ mấy nhà

Tác giả đã miêu tả phần lớn là thiên nhiên tính từ lác đác đc đảo lên trên danh tư chợ mấy nhà Đáng ra chơ là môt cộng đồng là nơi tụ họp của nhửng người dân nhưng đây lại là môt nơi hoang sơ hoe hút thấp thoáng có sư sống của con người
Tiêp tục sang câu thứ 5 6 cái lanh lẽo tróng trải thấm sâu vào lòng người

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miẹng cái gia gia

Tiếng chim quốc tiếng chim đa đa thương nhà chính là tiếng lòng nhớ nước nhớ quá khứ đát nước của tác giả Ranh jới giũa đàng trong và đàng ngoài bà sinh thòi Nguyển vốn là người Bằc Hà bà lưu luyến chiều xưa cũng là môt điêu dễ hiểu

Có thể nói 6 câu thơ đầu là nói về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời thì 2 câu sau nói về nỗi buồn nỗi cô đơn hoài cổ của tác giả

Bài thơ kết thúc băng 2 câu

Dừng chân đửng lại trơi non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Nếu ở trên tâm trạng của tg đc diễn tả gián tiếp thì 2 câu sau tâm trạng của tg diễn tảgián tiép ngòi bút tả cảnh ngụ tình truyền sang ngòi bút tâm trạng Đối mặt với trời non nước bao la hùng vĩ nhà thơ cảm thay mình như nhỏ bè lai trước thiên nhiên vậy mà ko có ai cùng chia sẻ đành ta với ta

Đoc bài thơ Qua Đèo Ngang ta cảm nhận được rằng bài thơ thật trang nhã hiện lên môt cảnh đẹp bát ngát hùng vĩ

21 tháng 8 2018

Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.

Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:

Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai

Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỉ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo...

Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm

 Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng...

Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỉ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ...

(Ngắm trăng)

Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

 Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.

Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:

Một canh, hai canh, lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh

(Không ngủ được)

Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.

Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác Hồ hơn.

Đó không phải là bài cảm nhận văn của mk , chỉ là tham khảo thôi nha bạn . Mk mới lớp 5 .

22 tháng 8 2018

Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Nói đến Chủ Tịch Hồ Chí Minh không chỉ con dân Việt Nam mà nhân dân toàn thế giới đều giành cho người sự thương yêu, tôn trọng hết mực. Không chỉ là người chiến sĩ mà Người còn là một nhà thơ- một nghệ sĩ tài ba, tuy đã qua đời nhưng bác đã để lại cho nền văn chương Việt Nam nhiều tác phẩm bất hủ. Tiêu biểu trong sỗ đó là tác phẩm” Cảnh khuya”

CANH KHUYA

Cảnh khuya là bài thơ được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến dù gian khổ vất vả là vậy nhưng trong bài thơ ta không hề bắt gặp một lời than thở nào mà toàn bộ bài thơ là phong thái ung dung, yêu đời, yêu thiên, đắm mình vào thiên nhiên để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của thiên nhiên. Mở đầu bài thơ là một âm thanh thật nhẹ nhàng và ngọt ngào:
                                                                       Tiếng suối trong như tiếng hát xa
                                                                       Trăng lồng cổ thủ bóng lồng hoa

Trong không gian tĩnh lặng của đêm khuya vang lên một âm thanh đó là tiếng suối chảy, trong cảm nhận của bác tiếng suối chảy thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như “tiếng hát xa”, tiếng hát trong trẻo, du dương vang lên trong không gian yên tĩnh của núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ bác đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh, lối so sánh của bác cũng rất đặc biệt, đó là thiên nhiên con người luôn luôn gắn bó, soi chiếu vào nhau, con người làm cho thiên nhiên nổi bật hơn. Ngước mắt lên nhìn trời cao Người đã bắt gặp hình ảnh:
                                                                        Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Ánh trăng đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân, thi sĩ, trăng là người bạn tri kỷ, tâm tình của họ. Trong câu thơ này Người đã sử dụng rất tài tình động từ “lồng”, “lồng” ở đây là khiến hai vật khác nhau trở nên khăng khít và trở thành một vật thống nhất. Như vậy ta có thể thấy được câu thơ đã khắc họa rõ nét sự hòa quyện của ánh trăng và cảnh vật, chúng đan cài vào nhau, xóa nhòa đi khoảng cách để cùng tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp như vậy ta lại bắt gặp nỗi chăn chở, suy tư của người:
                                                                     Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
                                                                     Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Dù việc nước việc nhà bận bịu là vậy nhưng Bác cũng không quên việc giành sự ưu ái cho thiên nhiên, cùng thiên nhiên bầu bạn tâm tình,tìm đến thiên nhiên để quên đi những  mệt mỏi, bộn bề trong cuộc sống. Ngắm nhìn thiên nhiên không chỉ là cách giúp người thư giãn mà còn là cách cổ vũ cho tinh thần chiến đấu của Người. Thiên nhiên càng tươi đẹp sẽ thôi thúc ý chí Cách Mạng của người, thôi thúc mong muốn cho toàn dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng bác chẳng thể ngủ được vì còn nỗi nước nhà. Đó là nỗi lo vĩ đại, nỗi lo mang tầm vóc thời đại, trên vai Người đang gánh vác vận mệnh của cả dân tộc. Lo lắng là vậy nhưng người cũng không thể hững hờ với thiên nhiên, bác luôn tìm đến với thiên nhiên để xua tan đi những mệt mỏi trăm bề. 

Bài thơ “Cảnh khuya” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bác- phong cách ung dung, tự tại. Bài thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là vẻ đẹp tâm hồn của người thi sĩ. Bài thơ đã khép lại nhưng tâm hồn và ý chí của người sẽ mãi mãi khắc ghi trong trái tim của nhân dân Việt Nam và nhân dân trên toàn thế giới.