Cảm nghĩ của anh (chị) sau khi đọc đoạn kết.

">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 5 2017

Đoạn kết có ý nghĩa rất to lớn nó có tác dụng thúc đẩy ý chí nhận thức của con người về cách sống để tránh làm cho tâm hồn của mình bị tổn thương, không hoán đổi thân xác và sống nhờ vào thân xác của người khác.Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn

11 tháng 3 2017

Đoạn kết mang ý nghĩa thúc đẩy nhận thức của con người về cách sống, tránh những tổn thương về tâm hồn

- Được sống là điều quý giá thật, nhưng được sống là chính mình, trọn vẹn với giá trị của bản thân còn quý giá hơn

6 tháng 12 2017

Có thể nói đôi bàn tay ấy cũng có một cuộc đời, cuộc đời ấy giống như cuộc đời của Tnú vậy. Cũng có những lúc anh hùng nhưng cúng phải chịu nhiều đau thương mất mát. Thế nhưng đến cuối cùng bàn tay ấy cũng giết chết biết bao nhiêu kẻ thù để báo thù cho tất cả những đau thương mà nó cũng như chủ nhân nó phải chịu.Trước hết đó là một bàn tay lành lặn. Bàn tay ấy đã cùng với Mai học chữ trong rừng. Bàn tay ấy đã nhanh nhẹn cầm những thư liên lạc vượt qua mọi gian nan và những vòng vây của giặc để mang đến cho những người cán bộ trong rừng. Qua đây ta thấy hình ảnh đôi bàn tay của Tnú hiện lên thật sự rất đẹp, rất chắc chắn khi cầm thư và đồ tiếp tế. Một bàn tay nhỏ nhắn như vậy mà có thể cầm biết bao nhiêu đồ như vậy, quả thật rất đáng khen. Không những thế ta còn thấy được một người anh hùng Tnú tuy bé nhỏ nhưng đã mang sẵn bản chất anh hùng, bản chất sử thi. Bàn tay ấy không chỉ vậy mà còn gan góc cầm đá đập vào đầu của Tnú khi học không cho được cái chữ vào đầu. Theo như anh Quyết nói thì phải học cái chữ để có thể trở thành cán bộ được. Chính vì thế mà khi không học được, học chữ này thì quên mất chữ kia đôi bàn tay cầm lấy đá đập đầu khiến cho máu chảy ròng ròng. Chính hình ảnh bàn tay ấy làm nổi bật lên hình ảnh người anh hùng Tây nguyên ngay từ bé đã mang một tư tưởng lớn của cách mạng, phải trở thành cán bộ cách mạng để cứu dân làng, cứu nước. Và khi không học được chữ sợ rằng mình không thể giúp ích cho đất nước nên Tnú mới dùng chính bàn tay của mình để trừng trị mình.Và chính đôi bàn tay ấy anh đã giết chết bao nhiêu là kẻ thù.

14 tháng 10 2017

Nhắc đến Sơn Nam, người đọc hầu như ai cũng nghĩ đến một nhà khảo cứu sâu sắc, một nhà văn đầy tâm huyết vềm iền đất cực nam của tổ quốc. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung vào đề tài này.

Riêng về sáng tác văn học, tác phẩm đặc sắc nhất và tiêu biểu nhất của Sơn Nam chính là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, trong đó, bắt sấu rừng u minh hạ là một trong các truyện ngắn nổi bật hơn cả của ông. Trên từng trang viết, Năm Hên, ông già bắt sấu, nhân vật chính của truyện đã hiện lên khá sinh động và lôi cuốn người đọc.

Rừng U Minh Hạ là một khu vực thiên nhiên còn hoang dại: Muỗi vắt nhiều hơn co. Chướng khí mù như sương” (Thay lời tựa Hương rừng Cà Mau). Nơi mà những người daan miền cực nam Tổ Quốc đang khai khẩn và sinh sống. Từng ngày, từng giờ họ sẵn sàng đấu tranh với thiên nhiên và thú dữ để bảo tồn sự sống của mình. Những con người “trên phá Sơn Lâm, dưới đâm Hà Bá”. Này đã có công làm cho mảnh đất nơi đây phì nhiêu, màu mỡ bằng cách bón vào lòng đất mới mồ hôi và xương máu của chính mình. Trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt đầy sinh tử ấy đã xuất hiện không ít những con người đôn hậu, thật thà nhưng đầy mưu lược và dũng cảm Năm Hên Ông già bắt sấu trong truyện này đúng là một con người như thế.

Mang đậm nét tính cách của người nông dân Nam bộ trongb uổi đầu tìm đất mới để sinh cơ lập nghiệp, ông Năm Hên, trước hết là một con người thật hà đôn hậu. Tuy là cung cách xuất hiện của ông rất lạ: Trong xuồng voner vẹn một lọn nhang trần và một hủ rượu. Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui thoe rạch mà hát”. Lại nữa, bài hát của ông nghe sao mà “ảo não rùng rợn” như thể đang ru dỗ cho một linh hồn oan khuất nào đó. Nhưng khi thấy bà con có vẻ nghi ngờ, thiếu tin tưởng về cách bắt xấu bằng tay không của mình, ông Năm Hên đã thật thà bộc bạch: Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thị họ nói là bùa phép để kiếm tiền.

Là một người thật thà, đôn hậu, ông Năm Hên hành động vì nghĩa, không màng lợi lộc riêng tư cho mình. Ông tâm sự: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt nỗi không màng thứ phú quí đó..”, Người đọc hiểu ra, khi mới đến đây xưng tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, ông đã cải chính cách gọi về sự hành nghề của mình là bắt sấu chớ không phải câu sấu là thể hiện sự ẩn giấu một niềm tự hào thầm kín về công việc của mình, một công việc hoàn toàn vì nghĩa. Thấy việc cầm làm là làm, thấy người hoạn nạn là không ngại hiểm nguy ra sức giúp đỡ chẳng chút tính toán thiệt hơn. “Không màng thứ phú quí đó, đúng như lời nói ông già bắt sấu. Hình ảnh của ông không khỏi gợi chúng ta liên tưởng đến ông Ngư, ông Tiều, ông quán trong truyện Lục Vân tiên của Nguyễn Đình chiểu, như con người luôn ngời sáng một tinh thần hành động vì nhân nghĩa.

“Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng…
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ”
Dốc lồng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”

Do bộc bạch hết sức chân thành về gia cảnh và động cơ nghề nghiệp của mình, ông Năm Hên đã tạo được niềm tin bước đầu của dân làng. Câu nói của ông lúc đầu: “Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít” là câu nói khiêm tốn, thực tế cho thấy ông là người đầy mưu trí. Cách bắt sấu của ông được Tư Hoạch kể lại quả thật là tài tình: Lửa châm vô sậy, đế, cóc kèn xung quanh bắt cháy xuống đám sậy để trong ao. Chập sau bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hòi nãy… Ông đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhà ra cũng không được và: Ông Năm Hên xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp mình…

Nghe chuyện nầy có người đã nhận xét: “Thực là bậc thánh của xứ nầy rồi! Mưu kế như vậy thực quả cao cường”. Cũng qua lời tường thuật lại chuyện bắt sấu một cách khá cặn kẽ của Tư Hoạch, ai cũng thấy rõ ông Năm Hên là người rất dũng cảm. Phải dũng cảm mới giữ vững đwojc thái độ bình tĩnh trước lời sấu dữ mà chẳng chút nao lòng sợ sấu há miệng hung hăng đòi táp (ổng). Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Chính nhờ lòng dũng cảm, bình tĩnh, nên ông Năm Hên đã đánh gục được đàn sấu ăn thịt người. Bốn mươi lăm con cá sấu bị ông thòng cổ cho người xuôi sông chở về. Loài “thủy quái ấy” ngoan ngoãn phục tùng cứ như là được thuần dưỡng rồi vậy. Với lòng dũng cảm, ông đã thực sự là chủ nhân của vùng đất rừng hoang dại này.

Chính môi trường sống khắc nghiệt đã khiến con người phải mài sắc mưu mẹo và tài trí của mình để sinh tồn. Trở lại tính cách của hình tượng ông già “bắt sấu rừng U Minh Hạ” này, ta thấy ông còn là một con người mang tâm sự u uất. Hãy nghe ông bày tỏ gia cảnh: Cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi…. Anh bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Đây là một tổn thất lớn lao đối với ông. Bởi vậy ông thề quyết tâm trả thu cho anh mình. Mười hai năm trôi qua kể từ ngày đó mối thù ấy vẫn không nguôi. Cảnh sấu xuất hiện ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng lúc này được gợi lên trong lòng ông một nỗi đau nhức nhối tâm can, một nỗi cực lòng như chính ông đã chân thành bộc bạch với dân làng. Tâm sự đó, ông gửi vào lời hát:

“Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành
Hùm tha, sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biết!
Ta thương ta ta tiếc
Lập đàn giải oan….”

Thấy nhà văn miêu tả giọng hát của ông ảo não, rùng rợn, “Tiếng như khóc lóc nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ bi ải” người đọc đủ hiểu. Lại nữa nội dung bài hát buồn thảm. Đó không chỉ là lời tiếc thương của ông đói với người anh xấu số của mình mà đó còn là tiếng chiêu hồn tưởng nhớ đến, gọi về biết bao mảnh hồn người xa xứ vì “thắt ngặt manh áo chén cơm”. Giữa cảnh “U Minh Hạ đỏ ngòm, rừng tràm xanh biếc” đã phải thiệt mạng do “hùm tha, sấu bắt”… Người đọc càng thêm thông cảm ông, một con người sống tinh thần phong phú sâu sắc nên không bận lòng đến cuộc sống vật chất. Vì thế mà hành trang trên đường đi bắt sấu dữ cứu giúp dân lành của ông thật đơn sơ: Trong xuồng có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu. Đặoc biệt, tâm sự u uất của người thợ già chuyên bắt sấu nầy thể hiện rõ nét qua hình ảnh thảm thương đầy bí ẩn của ông ở đoạn cuối truyện, sau khi bắt được đàn sấu: áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay. Cứ tưởng như ông đang nhập đồng. Phải chăng ông thay mặt cho dân làng ở đây hát lên lời “Cầu siêu” cho biết bao oan hồn uổng tử đã vất vưởng lang than nơi “đầu bãi, cuối gành” buổi nào đã từng bỏ mạng vì cá sấu trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn bao đời nay cho cư dân ở đây”.

Như thế, thông qua lời nói, hành động, thể hiện nội tâm nhân vật, đặc biệt là chỉ bằng vài chi tiết đơn sơ, nhà văn Sơn Nam đã thể hiện được tính cách nhân vật chính, ông Năm Hên, người thợ già hcuyên bắt sấu ở rừng u Minh Hạ này một cách sinh động với sắc thái Nam bộ rõ nét là thật thà, đôn hậu đầy mưu trí và đặc biệt trọng nghĩa khinh tài.

Chúng ta đã đọc nhiều tác phẩm văn học từ sau Cách mạng tháng Tám, khắc họa khá thực, cụ thể và sinh động hình tượng ngưoiừ nông dân Nam bộ. Đó là những con người ít nhiều có dáng dấp tinh thần vị nghĩa của Lục Vân Tiên: thật thà, đôn hậu rất mực trung thành với chính nghĩa, với lí tưởng, với cách mạng, dũng cảm bất khuất trước kẻ thù.

Với nhân vật ông Năm Hên nói riêng, và truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ nói chung của nhà văn Sơn Nam, chúng ta được hiểu thêm một vẻ đẹp của người Nông dân Nam Bộ trong buổi đầu đi tìm đất mới, khai phá đất rừng hoang dại để mưu cầu sự sống còn. Dù mưu trí và dũng cảm đến đâu họ cũng không tránh khỏi biết bao gian lao nguy hiểm, nhiều lúc phải gặp cả những mất mát đau xót.

Ngày nay được sống trên mảnh đất yêu thương này, đâu lẽ chúng ta quên lãng công đức của bao lớp tiền nhân…

4 tháng 7 2017

Gợi ý tên truyện nguyên văn bằng tiếng Nga là Sutba delveka có nghĩa là "số phận một con người". Vậy đề tài của truyện là phản ánh số phận một con người cụ thể: cậu bé Va-ni-a hoặc Xô-cô-lốp chứ không phải số phận con người nói chung. Tuy nhiên, đây là tác phẩm viết về thời hậu chiến, nên những nỗi đau mất mát quá lớn của con người sau chiến tranh cũng là chủ đề cửa truyện ngắn này. Sô-lô-khốp đã trăn trở về vấn đề cuộc sống, sinh mạng con người, cũng như vấn đề hạnh phúc của những người sống sót sau chiến tranh.

- Sô-lô-khốp suy nghĩ sâu sắc về số phận con người, tin tưởng vào nghị lực phi thường của cách mạng có thể vượt qua số phận.

10 tháng 10 2017

Đoạn văn cảm động nhất đó là cảnh hai chị em Việt và Chiến khiêng bàn thờ má chạy qua cánh đồng, gửi sang nhà chú Năm để hai chị em lên đường đi chiến đấu. Cảnh tượng đó khiến người đọc liên tưởng và bồi hồi xúc động bởi nhìn vào đó ta thấy được tình yêu, tình hiếu thảo, chọn nghĩa đối với cha mẹ. Dù khó khăn gian khổ hai chị em vẫn yêu thương nhau và không quên trách nhiệm nghĩa vụ trả thù cho ba má. Vẫn luôn nhớ về ba mẹ và làm theo, đi theo con đường ba mẹ đã đi, hết lòng vì tổ quốc.

2 tháng 6 2017
Bài làm
“ Tôn sự trọng đạo”,một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay.Quả thật vậy,truyền thống đó dần trỡ thành một phẫm chất tối thiểu nhất mà mỗi người trong chúng ta cần phãi có.
Ông cha ta ngày xưa dạy chúng ta câu tôn sư trọng đạo nhầm nhắc nhỡ chúng ta phãi biết tôn trọng kình yêu những người đã dạy dỗ mình,không chỉ là người thầy mà còn là những bậc cha me,những người đã dạy chúng ta,dù ít dù nhiều chúng ta vẫn phãi giữ đúng tinh thần đó,như người xưa có câu: “Nhất tự vi sư,bán tự vi sư”.Từ khi còn trong nôi ai cũng được nghe lời ru: “ Muốn sang thì bắc cầu kiều.muốn con hay chữ phãi yêu lấy thầy” và càng ngày càng ngày lời ru đó cầng thấm nhuần sâu vào tâm trí của mỗi chúng ta rằng vai trò vị trí của người thầy rất quan trọng: “ Không thầy đố mày làm nên”.Qua đó cho ta thấy rằng người thầy dạy dỗ ta cũng có thễ ví như là những bậc sinh thành,vần được nhớ ơn,công lao dạy dỗ chúng ta,bỡi vì lẽ đó nhân gian có câu: “ Mùng một tết cha,mùng hai tết mẹ,mùng ba tết thầy”.Vậy đối với đầng sinh thành ra chúng mình,mình đã kính trọng,thương yêu biết bao nhiêu thì đối với những người đã dạy dỗ chúng ta,chúng ta cũng phãi có thái độ như vậy.
Mối quan hệ thầy trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xữ của cũa dân tộc Việt Nam.Tinh thần tôn sư trọng đạo không chỉ là vấn đề về đạo đức mà còn là một truyền thống văn hóa vô cùng tốt đẹp,vô cùng quý giá mà chúng ta cần phãi gìn giữ.Cũng như dân tộc ta có những ngày nhớ ơn cha mẹ,thì ta cũng có ngày nhớ ơn người thầy,đó là ngày hai mươi tháng mười một,ngày nhà giáo Việt Nam,là dịp đễ chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và sự kính yêu của mình bằng những lời cãm ơn,những món là nhõ bé chứa đựng tình cãm của chúng ta dành cho thấy cho cô.Tuy trong xã hội hiện nay,người thầy không còn ỡ một vị trí cao tuyệt đối nữa như xưa nữa,nhưng họ vẫn là những người được xã hội tôn trọng vì nghề dạy học được là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý,những người thầy người cô bõ biết bao công sức,tấm huyết cho những em học trò tựa nhưng đàn con nhỏ yếu dấu ruột thịt của mìnhcho dù trên lưng họ đang mang những gánh nặng,những lo toan mưu sinh trong cuộc sống,họ vãn dành thời gian,nghiền ngẫm nhưng bài dạy,làm giáo án,suy nghĩ phương thức giãng dạy như thế nào đễ học trò có thê nắm bắt tất cã bài học.Là bổn phận học sinh,chúng ta cần phãi giữ đúng tinh thần tôn sự trọng đạo
Cho đến bây giờ,truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn còn giữ nguyên đươc giá trị của nó,còn rất nhiều học trò ngoan ngoãn học tập,chú ý lắng nghe những gì thầy cô giãng,giữ đúng đạo làm trò,luôn lễ phép không làm uỗng công sức của người thầy.Như gương ông Phạm Sư Mạnh,một người học trò giỏi của thầy Chu Văn An,cho dù đã đỗ đạt làm quan to chức lớn,địa vị xã hội lớn hơn thầy mình rất nhiều nhưng ông vẫn rất lễ phép với thầy,khi về thăm thầy,ông cho lính ngựa đứng ngoài đầu ngõ,ông đi bộ vào nhà thầy và quỳ xuống lạy thầy.Thật là một tầm gương sáng để chúng ta noi theo.Nhưng bên cạnh đó,vẫn còn rất nhiều không làm tròn bổn phận học sinh,tỏ ra coi thường công sức của người thầy miệt mài ngày đêm để có được bài giảng cho mình,xúc phạm thầy cô và làm thầy cô buồn long.Thật đáng chê trách!
Vì vậy những ai đang là học sinh đang ngồi trên ghê nhà trường ,hãy thể hiện tinh thần tôn sự trọng đạo nhiều hơn nữa,cố gắng làm thây cô vui lòng.Còn đối với những ai từng làm thầy cô buồn long,hãy cố gắng sửa sai bằng việc học thật tốt,để không phụ lòng thầy cô.
Hãy giữ nét đẹp truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc,hãy biết ơn những người đã dạy cho ta nhưng bài học hay,cũng như những bậc cha mẹ nuôi nấng cho chúng ta ăn học nên người.Người thầy người cô luôn là một tấm gương đề chúng ta học hỏi,noi theo.Đồng thời là những người bỏ biết bao công sức để truyền đạt kiến thức cho ta mà không hề than trách như lời một bài hát:
“ Khi thầy viết bảng
Bụi phấn rơi rơi
Có hạt bụi nào
Rơi trên bục giảng
Có hạt bụi nào
Vương trên tóc thầy”.
2 tháng 6 2017
Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nho giáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên” - tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”.
Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nền giáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở “hằng số văn hóa” thầy - trò. Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học là người thầy. Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và đúc kết bằng bốn chữ: “Tôn sư trọng đạo”.

Câu nói: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là những lời cửa miệng của người Việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy. Ở dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để tỏ lòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “Sống tết, chết giỗ”. Chính vì thế mà dưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau vua, theo cách gọi: Quân - Sư - Phụ (Vua – thầy - cha).

Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của thầy trong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “Trò hơn thầy đức nước càng dày”, “học thầy không tầy học bạn” - ý nói bạn cũng có thể là thầy.

Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia đình nghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học vẫn có. Họ chỉ cần theo những phép tắc nhất định - những phép tắc biểu hiện đậm nét của sự tôn sư trọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất.

Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổ tiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một “lễ mọn”, mang tính chất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính “tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đình còn gửi gắm con mình theo học và ở luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vài lần. Thỉnh thoảng, gia đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá như một thông điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy.

Thời gian ở nhà thầy, học trò không chỉ học chữ nghĩa mà quan trọng phải tu dưỡng bản thân, rèn nhân cách sống. Có thể nói, đạo trò xưa không chỉ rất khiêm nhường, tôn kính người thầy của mình, mà còn có trách nhiệm, nghĩa vụ rất lớn lao. Khi ra đường, gặp thầy phải ngả mũ nón và vòng tay chào; lúc thầy già yếu, các đồng môn phải lo sắm cỗ thọ đường (áo quan)...

Phải thừa nhận nền giáo dục phong kiến có nhiều điểm còn hạn chế, nhưng do lấy tư tưởng đạo đức của Nho giáo làm nền tảng cơ bản nên đã tạo ra một lớp học trò trọng nhân nghĩa và sống có đạo lý, rất “tôn sư trọng đạo”.

“Tôn sư trọng đạo” còn thể hiện ở việc kính thầy. Kính thầy là một phong tục có giá trị nhân văn sâu sắc. Kính thầy thường vào dịp đầu xuân - Tết nguyên đán. Học trò xa gần náo nức rủ nhau tới chúc tết, thăm hỏi sức khỏe gia đình thầy. Dân gian có câu: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” cũng vì lẽ đó.

Mối quan hệ thầy - trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xử của nhân dân Việt Nam. Người thầy như điểm sáng trí tuệ sưởi ấm tâm hồn học trò. Tìm trong lịch sử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân vì nước. Cuộc sống của họ thanh bần mà được người đời ca tụng, lưu danh muôn thuở.

Vậy mới có một thầy Chu Văn An (1370), sẵn sàng từ bỏ áo mũ, quan tước, dâng sớ lên triều đình xin chém đầu 7 kẻ quyền thần. Một thầy Đồ Chiểu mù hai mắt nhưng cả đời kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh xâm lược của ngoại bang...

Ý thức “tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta thật đa dạng, chứa đựng tính nhân bản tình người. Minh chứng cho điều này, chúng ta ngược thời gian trở về các làng nghề truyền thống. Nhiều phường nghề, phố nghề ở Thăng Long được bắt đầu từ một số thợ thủ công trong các làng nghề ở nông thôn. Họ di cư lên đô thị lập thương điếm, cửa hiệu làm ăn, dần dà hình thành nên những phường nghề, phố nghề nơi kinh thành.

Tuy sống và làm việc tại thành thị, nhưng họ vẫn có quan hệ mật thiết với quê hương. Ngày giỗ tổ, không ước hẹn nhưng tất cả cùng đồng tâm tụ họp về chốn cũ quê xưa để tưởng nhớ tới vị thầy đã truyền nghề cho họ. Trong sâu thẳm tâm thức mỗi người, đó là việc làm ghi lòng tạc dạ công ơn của lớp hậu sinh tới bậc tiền bối - người thầy sáng lập ra nghề và truyền lại cho hậu thế.

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm ưu tiên cho phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cho phép đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Chủ trương đưa đất nước phát triển tiến lên bằng nền kinh tế tri thức. Nền giáo dục của Nhà nước ta đã chọn lấy ngày 20 tháng 11 hằng năm làm ngày Nhà giáo Việt Nam. Đây có thể xem như là một biểu tượng đẹp cho truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam .
8 tháng 10 2017
  • Khung cảnh Tết: khói hương, mâm cỗ thịnh soạn “vào cái buổi đất nước còn nhiều khó khăn sau hơn ba mươi năm chiến tranh…” mọi người trong gia đình tề tựu quây quần… Tất cả chuẩn bị chu đáo cho khoảnh khắc tri ân trước tổ tiên trong chiều ba mươi Tết.
  • Ông Bằng “soát lại hàng khuy áo, chỉnh lại cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước ban thờ”, “Thoáng cái ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm giác thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhòa… Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu.Con vẫn nghe đâu đấy lời giáo huấn…”.
  • Ý nghĩa: Khung cảnh Tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ gợi cho ta những suy nghĩ, xúc cảm sâu xa, thiêng liêng hướng về cội nguồn, giúp ta ý thức sâu sắc hơn về việc bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc, nâng cao trách nhiệm giữ gìn những giá trị tốt đẹp trong quá khứ.