Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Cuội là một nhân vật trong câu truyện cổ tích dân gian. Tác giả thể hiện ước muốn làm một nhân vật cổ tích, được sánh đôi với chị Hằng trên cung trăng và gửi gắm ước mơ sống ở cõi mộng.
- Ước muốn đó bắt nguồn từ tâm trạng chán ghét thực tại, cuộc sống với quá nhiều bất công, đau khổ. Vì vậy tác giả muốn rời cõi thực để đến với cõi mơ, được bầu bạn với thần thiên và nhìn xuống nhân gian. Qua đó, cũng thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Bài thơ tiêu biểu cho chất ngông trong thơ Tản Đà.
- Nội dung: Bộc lộ tâm sự của tác giả về nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa. Qua đó, thể hiện khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ dân dã đời thường và mang nét mới khi thể hiện cái tôi trong bài thơ.
+ Hồn thơ lãng mạn, pha chút ngông nghênh đáng yêu.
+ Giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
+ Sử dụng câu hỏi tu từ, câu cầu khiến, điệp từ, nhân hóa đã thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhà thơ
Điều khiến người đọc lưu tâm ở câu thơ thứ hai là kiểu "chán nửa rồi" với "trần thế" chứ không phải là "chán hết rồi". Chán nửa có nghĩa là chưa chán hẳn, còn thiết tha với cõi đời. Vậy là thi nhân mâu thuẫn với chính mình, giữa ước muốn thoát li hẳn đời như các thi nhân xưa muốn về với cõi tiên "lánh đục tìm trong" và tâm nguyện ở lại với đời để làm tròn "thiên lương" giúp ích cho dân chúng.
Theo luật thơ Đường, các cặp câu trên nhất thiết phải đối nhau. Hai cặp câu trên đối nhau như sau:
- Câu 3 – 4 : đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ. (cung quế - cành đa)
- Câu 5 – 6: đối về ý là chính. (đã ai ngồi đó chửa - xin chị nhắc lên chơi)
- Nhịp thơ (2/2/3) và từ loại phù hợp nhau.
Bài thơ "Quê hương" của nhà thơ Lưu Quang Vũ là một bức tranh tươi sáng về quê hương đầy màu sắc và đẹp đẽ. Tác giả đã miêu tả về quê hương với những hình ảnh sống động, mô tả về những nét đẹp độc đáo của quê hương mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những hình ảnh tươi sáng về quê hương, bài thơ cũng thể hiện được nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Những câu thơ như "Nhớ quê hương, nhớ người xưa/ Nhớ cánh đồng, nhớ con đường quê nhà" đã truyền tải được tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả. Tác giả đã dùng những từ ngữ da diết, cảm động để miêu tả nỗi nhớ quê hương của mình.
Bài thơ "Quê hương" không chỉ là một bức tranh tươi sáng về quê hương mà còn là một lời tâm sự chân thành của tác giả về tình yêu quê hương. Tác giả đã thể hiện được sự tương phản giữa hình ảnh tươi sáng và nỗi nhớ đau đớn, giữa sự sống động và sự lặng lẽ của quê hương. Bài thơ đã làm sáng tỏ nhận định rằng, bức tranh quê hương tươi sáng không chỉ đơn thuần là một bức tranh đẹp mà còn chứa đựng nỗi nhớ quê hương da diết của con người.
Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.Cái làng chài nghèo nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lại láng.
"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mè vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."
Bằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc họa tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi.Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng.
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng.Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ.Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”
Bạn tham khảo nha:
- Nhà thơ tản đà cười cho tất cả những giành giật, lo toan bé nhỏ của kiếp người trần gian, cười sung sướng vì khắp dưới cõi trần kia không ai được biết, được hưởng một cuộc sống thần tiên thoát tục như mình. Đó là niềm vui, là hạnh phúc tinh thần riêng mà Tản Đà tự tạo cho mình trong cõi mộng. Cũng như trong cuộc đời thực, ông thường tìm cho mình những vui thú thanh cao khi dạo chơi các miền đất nước, trong những mối tình tri kỉ với bạn bè khắp nơi. Con người ấy không hề bi quan mà biết làm giàu cho đời sống tinh thần của mình.
- Ý nghĩa của cái cười: cung quê ông cùng chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”, nụ cười của ông có thể hiểu theo nhiều ý nghĩa: cười bởi không thể thỏa mãn được khát vọng thoát li, xa lánh cõi trần gian hay cười vì mỉa mai, khinh bỉ cõi đời xô bồ, đen tối, ngột ngạt. Dù hiểu theo cách nào thì đó cũng thể hiện nỗi sầu của kẻ chán ghét và muốn thoát li thực tại.