K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bài tập 1
Đọc ngữ liệu sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
(Vội vàng, Xuân Diệu)
a/ Xác định 2 thành phần nghĩa của 4 câu thơ đầu?
b/ Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên?
c/ Hãy xác định từ loại và nghĩa của từ "hoài" trong câu thơ: "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"?
d/ Dựa vào đoạn thơ trên chứng minh Xuân Diệu là một nhà thơ mới?
Bài tập 2
Đọc ngữ liệu sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.
(Vội vàng, Xuân Diệu)
a/ Xác định 2 thành phần nghĩa của 2 câu thơ sau (
"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"
b/ Nêu nội dung chính của đoạn thơ
c/ Tìm 4 từ ngữ thể hiện sự ám ảnh và nỗi lo lắng của thi nhân khi nghĩ về sự hữu hạn của đời người
d/ Giải thích nghĩa của câu thơ: "Mau đi thôi mùa chưa ngã chiều hôm"
Bài tập 3
Đọc phần dịch thơ bài Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi ở dưới
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
NAM TRÂN dịch
(HỒ CHÍ MINH toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
a. Xác định thể thơ?
b. Hai câu thơ cuối tác giả đã gợi ra cảnh gì?
c. Cho biết ý nghĩa hình ảnh lò than rực hồng?
d. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác trong hai câu thơ cuối?
Bài tập 4
Đọc phần dịch thơ bài Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi ở dưới
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
NAM TRÂN dịch
(HỒ CHÍ MINH toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
a. Cho biết sự vận động của cảnh vật trong bài thơ?
b. Sự vận động của tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ?
c. Sự vận động của cảnh vật và tậm trạng cho ta hiểu gì về con người Hồ Chí Minh?
Bài tập 5
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước cách mạng tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc trong nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông...
(Huy Cận, Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, 1994)
a/ Văn bản giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề gì liên quan đến bài thơ Tràng giang của Huy Cận?
b/ Xác định câu văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong văn bản? Nêu hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng biện pháp tu từ đó?
c/ Giải thích từ tràng giang trong đoạn thơ?
Bài tập 6
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(Tràng giang, Huy Cận)
1/ Tìm những chi tiết tác giả miêu tả dòng sông?
2/ Hình ảnh "củi một cành khô" gợi cho anh/ chị cảm nhận gì?
3/ Nghệ thuật nào được sử dụng ở đây? Tác dụng của việc sử dụng nghệ thuật đó?
Bài tập 7
"- [...] Còn một điều nữa tôi cũng muốn nói với anh. Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên.
- Vì sao vậy? – Cô-va-len-cô hỏi lại bằng giọng trầm trầm.
- Chẳng lẽ điều này lại còn cần phải giải thích nữa sao? Chẳng lẽ đó lại là điều khó hiểu ư? Nếu thầy giáo đi xe đạp thì học sinh sẽ làm gì? Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước là đi đầu xuống đất thôi. Vả lại nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hôm qua tôi sợ phát kinh lên đấy! Khi tôi nhìn thấy chị của anh, mắt tôi hoa lên. Đàn bà con gái mà đi xe đạp thì quả là chuyện kinh khủng!"
a) Hãy cho biết tên của nhân vật "tôi" và xuất xứ đoạn trích trên?
b) Nội dung của đoạn trích?
c) Từ đoạn trích trên, anh/chị thấy điều cần phê phán ở nhân vật "tôi" là gì?

===))) M.ng giúp em với ạ 😭😭 Thankk youuu so muchh

0
18 tháng 1 2018

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích.

2. Thân bài:

- Cảm nhận tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu qua đoạn thơ

Về nội dung

* Xuân Diệu đã phát hiện ra thiên đường ngay trên mặt đất, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc ngay trong tầm tay của chúng ta:

- Đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, niềm vui và sức sống, được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh : ong bướm, hoa lá, yến anh, tuần tháng mật...

   +) Màu sắc: màu xanh rì của đồng nội, màu của lá non, màu của cành tơ phơ phất...=> Gợi hình ảnh non tơ, mơn mởn.

   +) Âm thanh: khúc tình si của yến anh

- Bức tranh thiên nhiên ấy còn được vẽ lên với vẻ xuân tình: mối quan hệ của thiên nhiên, cảnh vật được hình dung trong quan hệ như với người yêu, người đang yêu, như tình yêu đôi lứa trẻ tuổi, say đắm. Các cặp hình ảnh sóng đôi như ong bướm, yến anh càng làm bức tranh thiên nhiên thêm tình ý.

=> Xuân Diệu đã khơi dậy vẻ tinh khôi, gợi hình của sự vật, nhà thơ không nhìn sự vật ấy bằng cái nhìn thưởng thức mà bằng cái nhìn luyến ái, khát khao chiếm hữu.

- Bức tranh thiên nhiên đời sống con người càng đằm thắm, đáng yên hơn khi:

“Mỗi……môi gần”

=> Với Xuân Diệu cuộc sống là vui và mùa xuân là đẹp nhất.

* Tâm trạng của nhà thơ

- Niềm sung sướng hân hoan, vui say ngây ngất trước vẻ đẹp của cuộc sống trần gian.

- Tâm trạng vội vàng, nuối tiếc thời gian, nuối tiếc mùa xuân ngay cả khi sống giữa mùa xuân.

Về nghệ thuật

- Mới mẻ trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống; quan niệm thẩm mĩ hiện đại; phép điệp, liệt kê, so sánh, chuyển đổi cảm giác.

- Cấu trúc dòng thơ hiện đại.

3. Kết Bài: Đánh giá

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu.

Tình yêu đời của Xuân Diệu đem đến quan niệm nhân sinh tích cực.

Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ảnh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gð cửa, Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (Trích Vội vàng, Xuân Diệu, Tr 22, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007) (2)Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lả vàng? Với...
Đọc tiếp

Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ảnh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gð cửa, Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (Trích Vội vàng, Xuân Diệu, Tr 22, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007) (2)Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lả vàng? Với của hoa tươi, muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang! ( Trích Xuân, Chế Lan Viên) 1/ Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt của văn bản ( 1) và (2)? 2/ Xác định nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong câu thơ Của ong bướm này đây tuần tháng mật thuộc văn bản (1) 3/ Chỉ ra sự khác nhau quan niệm về thời gian qua từ xuân của 2 văn bản trên. 4/ Viết đoạn văn ngắn ( 5 dến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng một bộ phận giới trẻ có lối sống gấp, sống ích kỉ trong cuộc sống hôm nay.

0
17 tháng 3 2022

*TK*

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.

 
17 tháng 3 2022

ham khảo 

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;Này đây hoa của đồng nội xanh rì;Này đây lá của cành tơ phơ phất;Của yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi,Mỗi buổi  sớm, thần Vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoaì xuân.”                 (Trích Vội vàng – Xuân...
Đọc tiếp

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;Này đây hoa của đồng nội xanh rì;Này đây lá của cành tơ phơ phất;Của yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi,Mỗi buổi  sớm, thần Vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoaì xuân.”

                 (Trích Vội vàng – Xuân Diệu)

1.        Đoạn trích chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào?

2.        Nội dung của đoạn trích?

3.        Chỉ ra một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn trích? Nêu tác dụng của bpnt đó?

4.        Chỉ ra các thành phần nghĩa của câu thơ sau: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

2

1. Phương thức biểu đạt chủ yếu : Biểu cảm

2. Nội dung : Vẻ đẹp của mùa xuân.

3. Nghệ thuật : so sánh "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"

=> Tác dụng : Cho thấy được tháng giêng là những ngày đẹp.

4. CN : Tháng giêng.

VN : ngon như một cặp môi gần

28 tháng 2 2021

1. 

PTBD: biểu cảm

2.

Đoạn trích thể hiện niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc, tha thiết với cuộc đời đến cuồng nhiệt

3. 

BPNT:

so sánh (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần) 

=>Cách so sánh lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực

điệp từ (này đây)

=>Miêu tả khu vườn xuân vui tươi, ấm áp, đầy hương sắc, đầy âm thanh

4.

Biện pháp so sánh làm cho người đọc thấy sự ngọt ngào, dịu dàng của mùa xuân

 

 

28 tháng 2 2021

Bạn tham khảo nhé !!

 

Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:

" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"

Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.

"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"

Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.

"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.

Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".

"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.

Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.

Anh/chị tham khảo :

Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:

" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"

Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.

"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"

Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.

"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.

Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".

"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.

Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.

28 tháng 2 2021

Bạn tham khảo nhé !!

 

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về Xuân Diệu- Dẫn dắt vào đoạn thơ

2. Thân bài

a. Tình yêu thiên nhiên của tạo hoá:- Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng- Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng.- Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn- Cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ.- Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian- Lòng tác giả cũng rạo rực, say mê trước nàng xuân yêu kiều- Thần Vui gõ cửa mỗi sớm mai- So sánh độc đáo: Tháng giêng - cặp môi gần=> Cung đường tươi đẹp của mùa xuân → Trái tim yêu thiên nhiên tha thiết mới có cảm nhận tinh tế đến như vậy.

b. Yêu cuộc sống nên phải sống vội vàng kẻo bỏ lỡ thời gian:- Càng yêu cuộc sống càng sợ thời gian vụt trôi- Mỗi phút giây đều sung sướng tận hưởng nhưng lòng không quên thúc giục phải vội vã- Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.- Lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ

 

Bạn tham khảo :

 

MB :

_ Giới thiệu tác giả Xuân Diệu và tác phẩm " Vội vàng"

- Nêu cảm nhận về sự mới mẻ của Xuân Diệu về quan niệm thời gian trong tác phẩm 

TB : 

* Đoạn 2 của bài thơ tác giả thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi chảy của thời gian:

- Nhịp điệu thơ trong đoạn này không sôi nổi, vồ vập như đoạn thơ trên mà chậm hơn, lắng lại những suy tư.

- Đoạn thơ đã thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình hay cũng chính của nhà thơ Xuân Diệu khi ngay trong sung sướng đã thấy tiếc mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn ra trước bước đi của thời gian.

- Thơ xưa khi nói về sự vận động của thời gian, họ coi thời gian là một chuỗi tuần hoàn bất biến, Nguyễn Du từng viết: "Ngày xuân con én đưa thoi"(Cảnh ngày xuân) hay "Ngày xuân như bóng câu qua cửa sổ". Dẫu vậy, người xưa vẫn ung dung, bình tĩnh vì tin rằng vũ trụ tuần hoàn, xuân đi xuân lại lại.

- Còn Xuân Diệu, "xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân đã già". Đó là lối nói đa nghĩa đầy mới mẻ rằng thời gian luôn chảy trôi, không đứng đợi. 

- Thời gian trôi, mùa xuân đi cũng là lúc tuổi trẻ đã qua. Con người quý nhất là mùa xuân, quý nhất là tuổi trẻ. Mùa xuân trôi, tuổi trẻ trôi => tôi cũng mất => tưởng tượng ra cuộc chia li đầy ắp đất trời.

- Một loạt động từ: "rớm, than, hờn, sợ" như là một sự nhân hóa để thể hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã tràn sang vạn vật, thấm vào từng cảnh, từng giác quan của con người. Bởi vậy mà con người và vũ trụ đều buồn thê thiết

- Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.

KB :

- Khẳng định lại nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ .

** Bài viết tham khảo

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới. Nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến một hồn thơ lãng mạn, rạo rực, bâng khuâng. Đó là một tâm hồn luôn thiết tha, gắn bó với cuộc đời.  Khát khao giao cảm ấy đã được kết tinh lại trong bài thơ “Vội vàng”. Đây là một trong những bài thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời gian được thể hiện trong khổ 2 bài thơ.

Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, người đọc cảm nhận được nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời gian. Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như một sự vỡ lẽ. Bước chân của thời gian cứ thế mà trôi đi qua từng câu chữ

Các trạng thái của thời gian lần lượt được nêu ra. Nhưng đó không phải là khung cảnh nhộn nhịp mà là những trạng thái đối lập “đương tới” – “đương qua” và “còn non” – “sẽ già”. Các trạng thái ấy cũng chính là sự tiếp nối của chúng trong vòng xoay của thời gian.

Thời gian vận động không ngừng, mọi thứ cũng không ngừng đổi thay. Nếu trong văn học trung đại, thời gian là một vòng tròn tuần hoàn không ngừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Vì vậy, con người trung đại tuy ý thức được sự nhỏ bé của mình trước dòng chảy của thời gian nhưng rất ít khi ta thấy họ cất lời than thở vì cuộc sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết

“Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai”

(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư)

Nhưng trong thời đại Thơ mới, con người đã ý thức rõ sự hạn hữu của đời người. Thời gian không còn là vòng tròn bất tận mà là một đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời gian, con người chỉ như một hạt cát nhỏ bé giữa sa mạc. Thời gian vô tận mà đời người hạn hữu. Vì vậy mà đứng trước thời gian con người thường thấy mình nhỏ bé bất lực, chỉ có thể buông xuôi nhìn thời gian qua lẽ tay. Mới khi nào mùa xuân còn tươi đẹp thì mai đây nó sẽ trở nên già cỗi như một quy luật tất yếu

“Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết”

(Hoa nở để mà tàn – Xuân Diệu)

Bước đi của màu xuân cũng là bước đi của thời gian và bước đi của đời người. Phép điệp “nghĩa là” càng nhấn mạnh thêm sự bất ngờ có phần hốt hoảng về dòng chảy của thời gian của cuộc đời. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ khi nó đã qua đi, khi nó chỉ còn là kỷ niệm nhưng Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay khi nó đang đến, ngay khi ông đang đắm mình trong bức tranh xuân ấy. Đó không chỉ là mùa xuân của đất trời mà còn là mùa xuân của đời người. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 để thấy Xuân Diệu còn lấy thời gian của đời người để làm thước đo cho thời gian của vũ trụ.

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Những câu thơ được nối kết nhau bởi từ “xuân”. Điệp từ “xuân” được lặp lại để nhấn mạnh mùa xuân của đất trời cũng như nhấn mạnh mùa xuân của tuổi trẻ. Đó đều là những gì đẹp nhất của đất trời, của đời người. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, những tưởng thời gian bốn màu xuân hạ thu đông cứ thể mà chảy trôi mặc kệ sự tồn tại của con người, nhưng trong những dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có mối quan hệ gắn kết với nhau.

Thời gian thiên nhiên kết thúc “xuân hết” nhưng kéo theo đó “tôi cũng hết”. Câu thơ vang lên như nhue một tiếng thở dài cùng đất trời. Tuổi trẻ qua đi thì sự tồn tại của “tôi” cũng trở nên vô nghĩa. Bởi tuổi trẻ qua đi, tình yêu không còn thì mọi thứ cũng cứ thế mà trôi đi cùng dòng chảy của thời gian. “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn.

Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 còn cho thấy thời gian đất trời dường cũng đang trêu chọc con người. Mùa xuân của đất trời dù sẽ lặp lại nhưng màu xuân của đời người – tuổi trẻ thì vĩnh viễn không thể quay trở lại. Vì thế dù thời gian có lặp lại thì mọi thứ cũng vô nghĩa bởi lúc đó “tôi” không còn là “tôi” của hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã từng nói

“Cái bay không đợi cái trôi

Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”

(Đi thuyền – Xuân Diệu)

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Trời đất cứ thế mà xoay vần nhưng tôi sẽ không vĩnh hằng cùng đất trời. Lúc này, hẹn ước ba sinh hay một cuộc sống chốn thiên đường cũng không thể xoa dịu tâm hồn thi nhân. Bởi lẽ điều ông cần không phải là hạnh phúc ở một kiếp nào khác mà phải là được tận hưởng hương sắc cuộc đời được hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại khi tuổi trẻ đang đến, tình yêu đang xuân sắc.

Thế nhưng, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc sẽ thấy dù biết trước “tôi” sẽ không tồn tại vĩnh viễn để đón nhận thiên nhiên đất trời tươi đẹp nhưng Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”. Xuân Diệu dường như đang tiếc nuối vì không thể tận hưởng hết mọi hương sắc của cuộc đời. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, ta thấy những dòng thơ này, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.

Trước dòng chảy ấy không chỉ Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc mà mọi vật cũng mang màu sắc u buồn, đầy mất mát chia ly.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Tháng năm – thời gian không được cảm nhận qua sự thay đổi biến thiên của vạn vật trôi qua kẽ lá mà được cảm nhận bằng khứu giác “mùi tháng năm”. Khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy. Hóa ra thời gian không vô tình như ta vẫn thường nghĩ mà tháng năm dường như cũng đang tiếc nuối cho chính bản thân mình. Ý thơ ấy gợi ta liên tương đến cảm nhận của Đoàn Phú Tứ

“Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngát

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh”

(Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)

Cuộc chia ly báo trước không thể nào thoát khỏi. Không chỉ thời gian mà cả không gian cũng tràn ngập dự cảm chia lìa. Đó là không gian rộng lớn của cả sông núi. Cảnh vật tươi đẹp hiện tại rồi sẽ trở thành quá khứ. Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi không níu lại được. Cuộc chia ly mỗi phút mỗi giây vẫn cứ diễn ra như thế. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc thấy rằng từ cảm nhận chung về cả không gian rộng lớn, Xuân Diệu bắt đầu vẽ ra cuộc chia ly của vạn vật một cách cụ thể hơn

“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Vẫn là hình ảnh chim, gió nhưng không còn rộn ràng vui tươi của khúc ca yến anh hay của cành tơ phơ phất mà cũng hòa vào bản nhạc buồn chia ly của sông núi. Cơn gió không reo vui cùng cành lá, đem lời ca niềm vui lan tỏa đến mọi người mà cơn gió ấy chỉ “thì thào trong lá biếc” dường như đang hờn giận điều gì.

Đến tiếng chim không còn gảy khúc tình si mà bỗng dưng lặng im. Hót để mà chi khi cuối cùng vẫn phải nói lời ly biệt. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc phát hiện ra biện pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh tế để góp phần tô đậm thêm nỗi buồn vạn vật trước thời khắc biệt ly sắp đến. Mỗi sự vật dường như đang tiễn biệt chính mình, không gian cất lên khúc hát tiễn biệt thời gian. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó không sao cưỡng lại được.

Trước bài ca ly biệt của núi sông, thi nhân cũng cất lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy nuối tiếc.

“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa”

Câu thơ như một lời kêu đầy hốt hoảng và bất lực. Hốt hoảng bởi lẽ cuộc sống trần gian ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc đời lại mênh mông khi thi nhân vừa phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời gian con người lại không thể xoay vần con tạo cứ thế mà bị cuốn trôi đi không sao níu giữ.

Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, ta còn thấy thán từ “ôi” xuất hiện như một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ vì thế mà càng trở nên da diết hơn. Tuy bàng hoàng hốt hoảng tiếc nuối nhưng Xuân Diệu không buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời gian nhưng không buông bỏ, ngồi im chờ đợi thời gian trôi. Xuân Diệu đã tìm ra một cách giải quyết.

“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”

Lời thơ như một  lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. Thời gian chảy trôi nhưng hiện tại “mùa chưa ngả chiều hôm” cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, cảnh sắc trần gian vẫn còn đó đầy tươi đẹp quyến rũ lòng người.

Vì vậy, buồn mà chi, thất vọng trước điều không thể thay đổi để làm gì. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc cảm nhận được đây chính là một lẽ sống tích cực. Một thanh âm trong trẻo xóa tan đi khúc nhạc u buồn chia ly.

Bằng những nét phác họa thiên nhiên cùng với việc sử dụng từ ngữ khéo léo, Xuân Diệu đã vẽ ra một cuộc chia ly của núi sông. Giọng thơ như phân tách làm hai, nhà thơ đang tự nói với chính mình, giãi bày nỗi lòng mình mà dường như lời nói ấy cũng hướng ra ngoài.

Trên cái nền chia ly ấy, người ta dễ rơi vào những cảm xúc tiêu cực buồn bã, oán than, căm phẫn, bỏ mặc buông xuôi cuộc đời. Nhưng Xuân Diệu lại không bỏ mặc hay căm phẫn trước cuộc đời. Bởi ông hiểu đó là điều tất yếu của cuộc sống. Vì vậy, Xuân Diệu không oán than hờn trách nữa ông chấp nhận và cố gắng sống hết mình từng phút giây ngắn ngủi nhưng đầy hương sắc. Vì thế, vội vàng không phải là lối sống tiêu cực mà là một khát khao mãnh liệt sống trọn với cuộc đời. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 người đọc sẽ thấy khát khao sống cháy bỏng của thi nhân

Tóm lại, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc nhận ra tuy thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời. Lời thơ cũng vì thế là chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho người cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những quan niệm sống mới mẻ đầy tích cực được thi sĩ Xuân Diệu truyền tải trong thơ.