K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 6 2018

1 con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là ma

2 Ban ngày quan lớn như thần

Ban đêm quan lớn tần ngần như ma

3 Người trênowr chẳng chính ngôi

Khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào

Người trên ở chẳng dc cao 

Khiến cho kẻ dưới lộn nhào lên trên 

Nên ra trên kính dưới nhường 

Chẳng nên đạp hắt bên đường nhà đi

4 em là con gái đồng trinh

Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè

Quan Nghè cho lính ra ve

Trăm lạy quan nghè tôi đã có con

Có con thì mặc có con 

Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan

5 Em là con gái cửa dinh

Qua đình cun lớn cụ rình, cụ nom

Của em chẳng để ai dòm

Cáo già ngó hết, mèo con cũng chừa

       The end

2 câu cuối là ns về thân phận thấp kém của ng phụ nữ nha

Còn 3 câu trên là ám chỉ bọn quan lại trong XHPK

Xong rồi đó....k mk nha bn

15 tháng 6 2018

B VÀO KHO TÀNG CA DAO . VN

11 tháng 1 2018

giup minh nhe minh can ngap

6 tháng 5 2016

bai ca dao này nhé

Thương thay thân phận con tằm

,Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ....

và bài này nữa

Thân em như trái bần trôi

Gío dập sóng dồi biết tấp vào đâu


 

 

 

6 tháng 5 2016

các bạn đừng tìm mấy bài khác nhé (cô mình không cho)

hehe

25 tháng 10 2017

Qua hình ảnh con cò đáng thương,bài ca dao đã thể hiện được quan điểm chết trong còn hơn sống đục của cha ông ta.Đồng thời,bài ca dao còn bày tỏ sự ngậm ngùi ,thương c̉am trước số phận vất vả,long đong,cơ cực của những người mẹ dám hi sinh c̉ tính mạng mk vì đàn con yêu dấu.Vì thế bản thân mỗi chúng ta cần thấu hiểu những nỗi niềm,khổ đau đó của các đấng sinh thành,cố gắng làm tròn bổn phận của kẻ làm con.

25 tháng 10 2017

ko chép trên mạng nhé thông cảm cho mình !

câu 1

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Bạn sẽ có thể kiếm 40 triệu đồng mỗi ngày khi học được mẹo này

Uống trước khi ngủ để tống khứ kí sinh trùng trong cơ thể

Cách tốt nhất để kiếm tiền ở việt nam

Hôi miệng sẽ biến mất nếu bạn uống thứ này trước giờ ngủ

Hai câu đầu trong bài thơ ” Cảnh khuya” đã vẽ nên cảnh núi rừng Việt Bắc rất tài tình. Ngay đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh tiếng suối chảy êm đêm với “tiếng hát xa” của con người. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đặc sắc làm nổi bật lên cảnh rưng khuya tĩnh lặng, yên ả nhưng không heo hút, hoang vu. Phép so sánh đã làm cho tiếng suối thêm vui tươi, đầy sức sống. Đây là lấy con người  làm chủ đã làm cho khung cảnh núi rừng thêm gần gũi, thân mật với con người.

Câu thơ thứ hai đã gợi lên hình ảnh vầng trăng tươi sáng, điệp ngữ lồng được điệp lại ba lần thật là hay, thật đắt. Ta như xao xuyến, bồi hồi trước bức tranh đêm trăng lung linh, huyền ảo với nhiều tầng bậc cao thấp, sáng tối hòa hợp, quấn quýt. Tuy chỉ có hai màu trắng – đen nhưng ta đã tưởng tượng ra trăm nghìn màu sắc. Bức tranh được thêu dệt bởi tầm cao của trăng, tầng trung của vòm cổ thụ cùng tầng thấp của lá, hoa. Cảnh rừng Việt Bắc thật sinh động, tươi sáng và là niềm vui sống của con người.

Hai câu thơ đã thể hiện tâm hồn cao đẹp của nhà thơ, của nghệ sĩ Hồ Chí Minh, yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Ta thấy như thế thì sẽ có tâm hồn thanh cao đang sống những phút giây thần tiên ở chiến khu Việt Bắc.

4 tháng 1 2018

Cau tra loi cua bn ko hop cau hoi cua mik cho lam.

16 tháng 9 2016

Bên cạnh những đặc điểm chung với thơ trữ tình (có vần, nhịp, sử dụng nhiều biện pháp tu từ,...), ca dao, dân ca có những đặc thù riêng:

+ Ca dao, dân ca thường rất ngắn, đa số là những bài gồm hai hoặc bốn dòng thơ.

+ Sử dụng thủ pháp lặp (lặp kết cấu, lặp dòng thơ mở đầu, lặp hình ảnh, lặp ngôn ngữ,...) như là một thủ pháp chủ yếu để tổ chức hình tượng

30 tháng 9 2017

Kho tàng văn học dân gian với những câu ca dao, dân ca chỉ các thể loại trữ tình, dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống của con người. Bài những câu hát về tình cảm gia đình trong sách văn lớp 7 là một trong những bài thuộc thể loại đó.
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!"
Tình cảm của bài ca dao trêm là tình cảm của cha mẹ dành cho con, nhắc nhở con cái phải luôn hiếu thảo với cha mẹ - một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Bài ca dao này còn sử dụng hình ảnh so sánh giữa "công cha" với "núi cao" và "nghĩa mẹ" với "biển rộng". Và chúng ta sẽ cảm nhận rõ được tình cảm ấy qua câu "Cù lao chín chữ" nói về chín chữ nêu cao công lao cha mẹ nuôi con vất vả trăm bề.
Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Còn người mẹ là người sinh thành và nuôi em khôn lớn. Mẹ luôn là người mẹ dịu dàng nhưng cũng rất nghiêm khắc. Mẹ luôn dõi theo từng bước đi, hành động, những suy nghĩ ngay ngô của em, cho em những lời khuyên bổ ích, hướng dẫn em đi trên con đường đúng đắn.
Hằng ngày, mẹ chẳng quản vất vả, nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo... Ngoài những thứ đó ra mẹ còn dạy dỗ, truyền đạt các kiến thức và kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để em học được những bài học cần thiết khi bước vào đời.
Với âm điệu khoan thai, chậm rãi, thiết tha, sâu lắng... từng dòng thơ như đi sâu vào tâm trí người đọc, rót từng giọt vào tai người nghe. Bài thơ đã giúp em hiểu được rằng đạo làm con của mỗi con người là trách nhiệm, bổn phận vô cùng thiêng liêng, cao cả.Nếu một ngày nào đó chúng ta mất cha hoặc mẹ hoặc cả hai thì ngày đó chắc chắn là ngày buồn thảm nhất trong cuộc đời.

29 tháng 9 2017

"Ngó lên nuột lạt mái nhà

Bao nhiêu nuột lạt, nhớ ông bà bấy nhiêu"

Bài ca dao nói lên một nỗi nhớ rất độc đáo, sâu sắc. "Bao nhiêu" và "bấy nhiêu" là hai cách nói tăng cấp . Nhà lợp gianh mới có nhiều nuột lạt. Số nuột lạt của nhà gianh nhiều vô kể, đã mấy ai đếm được. Chữ "nhớ" trong nhóm từ "nhớ ông bà bấy nhiêu" đã thể hiện lòng thương nhớ và biết ơn vô hạn của con cháu đối với ông bà. Câu ca dao nói lên một tình cảm rất đẹp của con người, nhân dân Việt Nam.

21 tháng 2 2017

Trong kho tàng ca dao Việt Nam, Thằng Bờm là bài ca dao rất phổ biến, có lẽ trẻ già, bé lớn đều thích, đều thuộc. Mỗi người có sự cảm thụ khác nhau về cái hay của bài ca dao độc đáo này. Dưới đây xin được góp thêm một cách cảm nhận về bài ca dao Thằng Bờm.

Bài ca dao ra đời trong xã hội phong kiến, phản ánh những mâu thuẫn giữa bọn địa chủ bóc lột và người nông dân nghèo khổ. Và Thằng Bờm không thể hiểu đơn giản là một đứa bé nhà quê mà là hình ảnh tượng trưng cho cách ứng xử của người nông dân xưa với bọn phú ông gian xảo. Thằng Bờm mang dáng dấp một truyên ngụ ngôn, chứa đựng triết lí sống của người nông dân trong xã hội phong kiến.

Ngày ấy,giai cấp thống trị, bóc lột luôn xem người nông dân khờ dại và ngu dốt, rất dễ bị bắt nạt, lừa gạt. Nhưng qua bài Thằng Bờm, cha ông ta đã minh chứng cho điều ngược lại. Họ có thể là thiếu tiền, thiếu học nhưng không hề thiếu vốn sống, thiếu sự khôn ngoan, thông minh trong ứng xử với bọn Phú ông.

Đọc Thằng Bờm ta như nghe một câu chuyện vui đầy kịch tính.

Nói đến Thằng Bờm, ta dễ liên tưởng đến một đứa bé con nhà nông dân , một đứa bé hồn nhiên chất phác. Thằng bé chỉ có một món tài sản thô sơ, quê mùa, chỉ là cái quạt mo, nhưng là thứ cần thiết và đắc dụng trong mùa hè. Trẻ em khi đọc bài này, nhiều em cứ ngỡ cái quạt ấy là cái quạt thần, quí báu lắm. Nhưng thật ra, đó chỉ là cái quạt mo cau bình thường - mà mo cau thì rụng đầy đường làng ngõ xóm. Rất dễ dàng làm cái quạt mo nếu chịu bỏ ra chút công sức. Nhưng Phú ông thì muốn có mà không muốn bỏ ra công sức. Bọn chúng có muốn chừa cho người nghèo cái thứ gì! Hành động xin đổi của phú ông chính là thực hiên âm mưu chiếm đoạt ấy.

Hãy thử tưởng tượng, trong một buổi trưa oi nồng, thằng Bờm ngồi phe phẩy quạt mo dưới bóng tre xanh, thật mát mẻ và khoan khoái! Tình cờ lão Phú ông đi ngang, và thấy, và thèm muốn cái quạt , thế là lão nảy ra ý định chiếm lấy cái quạt của thằng bé. Chắc lão nghĩ rằng , lừa một thằng bé mà có khó gì. Lão đã chẳng lừa được bao nhiêu người khôn ngoan khác trong đời lão rồi đấy thôi. Vậy là lão lên tiếng :

Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Phú ông đã dùng vật chất để dụ dỗ lòng tham của Bờm. Hắn quá biết rằng “Dưới cái mồi thơm tất có con cá chết”. Nhưng rồi hắn ngỡ ngàng. Thằng Bờm đâu dễ bị lừa gạt. Cái mồi thơm “Ba bò chín trâu” ấy không làm Bờm mê đắm. Nó cũng học được lời răn dạy cuả cha ông, đừng nên “thả mồi bắt bóng”. Vì thế Bờm đã lắc đầu và trả lời bằng một câu nói nhỏ nhẹ mà dứt khoát:

Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu.

Lão Phú ông chắc đã tưng hửng vì bất ngờ. Nhưng lão đâu có chịu thua, lão khôn róc đời, không dụ được cái này, thì ta dụ cái khác, thế nào mà chẳng có cái làm thằng bé mê tít:

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.

Nhưng rồi sau bốn lần thả câu, món mồi cứ thay đổi ngày càng ít hơn nhưng cụ thể hơn, thiết thực hơn mà thằng Bờm vẫn thản nhiên lắc đầu:
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi

Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi .
Hãy tưởng tượng cái vẻ ung dung, có dáng bề trên của Bờm và cái vẻ xun xoe, ngon ngọt của kẻ dưới là phú ông mà thấy hả hê vì sự chín chắn, khôn ngoan của nó. Phú ông lúc này vẫn kiên nhẫn ,vẫn nhún nhường, nài nỉ, xin đổi cho bằng được cái quạt mo.

Ở đây đã có sự đổi vai, Thằng Bờm nghèo khổ đang đứng trên mà chọn lựa mà quyết định cái mình muốn, nó có quyền lắc đầu từ chối, có quyền cho lão nhà giàu một bài học cay đắng : Không phải có tiền là mua được tất cả. Tưởng tượng đến cái mặt tiu nghỉu vì thất bại của hắn mà xem, thật đáng thương hại!

Rõ ràng Bờm đâu có ngu ngốc. Nó không đổi cái quạt mo nhỏ bé mà nó đang có, đang hiện hữu trên tay, lấy cái lớn hơn, quí giá hơn mà xa ngoài tầm tay bởi vì nó học được bài học của cha ông “ Tham thì thâm”.

Thế là sau bốn lần xin đổi, Phú ông cũng không thể gạt được thằng Bờm. Lần này lão khôn ngoan hơn, lão chuyển sang xin đổi một thứ thiết thực, cụ thể hơn đối với nó:

Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Nụ cười của Bờm mới đẹp làm sao. Xin đừng nghĩ rằng mọi việc đã ngã ngũ, Bờm đã đồng ý chịu đổi. Bờm chỉ cười thôi mà.

Bờm cười .Nụ cười ấy chứa đựng điều gì? Phải chăng Bờm thú vị vì đã dồn ép được lão Phú ông . Không cho hắn nói những điều dối trá thường ngày, phải trở về với cách nói chân thật của người nông dân. Phải trả sự vật trở về với giá trị thật của nó. Cái quạt mo chỉ đáng giá với cái nắm xôi. Đó là sự trả giá nghiêm túc và sòng phẳng, có thể chấp nhận được.

Xin hãy đọc lại bài ca dao:

Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Xin hãy giữ lại nụ cười của thằng Bờm trong tâm hồn chúng ta để mà hả hê, mà thán phục, mà quí trọng một bài học ngụ ngôn của cha ông ta gửi cho con cháu đời sau qua bài Thằng Bờm: Hãy sống đơn giản và chân thật, đừng tham lam thả mồi bắt bóng mà bị bọn gian ác, xấu xa lừa gạt. Bài học ấy hẳn vẫn còn giá trị trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay!

Nguyễn Bá Phiếu

22 tháng 2 2017

hay lam! cam on nha

28 tháng 8 2016

Soạn bài : Ca dao, dân ca những câu hát về tình cảm gia đình

 
 
Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài
 
CA DAO, DÂN CA
NHỮNG CÂU HÁT VỀ TÌNH CẢM GIA ĐÌNH
 
I. VỀ THỂ LOẠI
1. Ca dao, dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết hợp giữa lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Hiện nay còn phân biệt ca dao và dân ca:Dân ca là những sáng tác kết hợp giữa lời và nhạc, ca dao là lời thơ của dân ca, ngoài ra còn bao gồm cả những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung với lời thơ dân ca.
2. Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, phản ánh tâm tư tình cảm, thế giới tâm hồn của con người (trữ: phát ra, bày tỏ, thể hiện ; tình: tình cảm, cảm xúc). Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, người nông dân, người phụ nữ,... trong quan hệ xã hội. Cũng có những bài ca dao châm biếm phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.
3. Bên cạnh những đặc điểm chung với thơ trữ tình (có vần, nhịp, sử dụng nhiều biện pháp tu từ,...), ca dao, dân ca có những đặc thù riêng:
+ Ca dao, dân ca thường rất ngắn, đa số là những bài gồm hai hoặc bốn dòng thơ.
+ Sử dụng thủ pháp lặp (lặp kết cấu, lặp dòng thơ mở đầu, lặp hình ảnh, lặp ngôn ngữ,...) như là một thủ pháp chủ yếu để tổ chức hình tượng.
4. Ca dao, dân ca là mẫu mực về tính chân thực, hồn nhiên, cô đúc, về sức gợi cảm và khả năng lưu truyền. Ngôn ngữ ca dao, dân ca là ngôn ngữ thơ nhưng vẫn rất gần với lời nói hằng ngày của nhân dân và mang màu sắc địa phương rất rõ.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Căn cứ vào nội dung câu hát có thể thấy: bài ca dao thứ nhất là lời của người mẹ hát ru con, bài  thứ hai là lời của người con gái lấy chồng xa quê nói với mẹ, bài thứ ba là lời của con cháu đối với ông bà, bài thứ tư là lời của cha mẹ dặn dò con cái hoặc lời anh em tâm sự với nhau.
2. Bài 1, tác giả ví công cha, nghĩa mẹ như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông lấy cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên để so sánh, làm nổi bật ý nghĩa: công ơn cha mẹ vô cùng to lớn, không thể nào cân đong đo đếm hết được. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng. Đây cũng là một nét tâm thức của người Việt. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ như hình ảnh cha nhưng sâu xa hơn, rộng mở và gần gũi hơn. Đối công cha với nghĩa mẹ, núi với biển là cách diễn đạt quen thuộc, đồng thời cũng làm cho các hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao hơn.
3. Ngày xưa, do quan niệm "trọng nam khinh nữ", coi "con gái là con người ta" nên những người con gái bị ép gả hoặc phải lấy chồng xa nhà đều phải chịu nhiều nỗi khổ tâm. Nỗi khổ lớn nhất là xa nhà, thương cha thương mẹ mà không được về thăm, không thể chăm sóc, đỡ đần lúc cha mẹ đau ốm, bệnh tật.
Nỗi nhớ mẹ của người con gái trong bài ca dao này rất da diết. Điều đó được thể hiện qua nhiều từ ngữ, hình ảnh:
- Chiều chiều: không phải một lần, một lúc mà chiều nào cũng vậy.
- Đứng ngõ sau: ngõ sau là ngõ vắng, đi với chiều chiều càng gợi lên không gian vắng lặng, heo hút. Trong khung cảnh ảm đạm, hình ảnh người phụ nữ cô đơn thui thủi một mình nơi ngõ sau càng nhỏ bé, đáng thương hơn nữa.
- ruột đau chín chiềuchín chiều là "chín bề", là "nhiều bề". Dù là nỗi đau nào thì cái không gian ấy cũng làm cho nó càng thêm tê tái. Cách sử dụng từ ngữ đối xứng (chiều chiều - chín chiều) cũng góp phần làm cho tình cảnh và tâm trạng của người con gái càng nặng nề, đau xót hơn.
4. Bài 3 diễn tả nỗi nhớ và sự yêu kính đối với ông bà. Để diễn đạt những tình cảm ấy, tác giả dân gian đã dùng biện pháp tu từ so sánh: nỗi nhớ được so sánh như nuộc lạt buộc trên mái nhà (rất nhiều).
Cái hay của cách diễn đạt này nằm ở cách dùng từ “ngó lên” (chỉ sự thành kính) và ở hình ảnh so sánh: nỗi nhớ – nuộc lạt trên mái nhà. Hình ảnh “nuộc lạt” vừa gợi ra cái nhiều về số lượng (dùng cái vô hạn để chỉ nỗi nhớ và sự yêu kính ông cha) vừa gợi ra sự nối kết bền chặt (tình cảm máu mủ ruột rà, tình cảm huyết thống của con cháu với ông cha).
5. Bài 4 là những câu hát về tình cảm anh em. Anh em là hai nhưng cũng là một, vì: “Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân” (cùng một cha mẹ sinh ra, cùng chung sống, cùng chung buồn vui, sướng khổ). Quan hệ anh em còn được ví với hình ảnh chân – tay (những bộ phận gắn bó khăng khít trên một cơ thể thống nhất). Hình ảnh đó nói lên tình nghĩa và sự gắn bó thiêng liêng của anh em.
Bài ca dao là lời nhắc nhở chúng ta: anh em phải hoà thuận, phải biết nương tựa lẫn nhau thì gia đình mới ấm êm, cha mẹ mới vui lòng.  
6. Những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu trong cả bốn bài ca dao:
- Thể thơ lục bát.
- Cách ví von, so sánh.
- Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày.
- Đặc biệt, ngôn ngữ vẫn mang tính chất hướng ngoại nhưng không theo hình thức đối đáp mà chỉ là lời nhắn nhủ, tâm tình.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Các bài ca dao đều được viết theo thể lục bát, nhịp 2/2 hoặc 4/4, do đó cần đọc trầm và nhấn giọng, thể hiện mối quan hệ tình cảm chân thành, thắm thiết.
2. Tình cảm được diễn tả trong bốn bài ca là tình cảm gia đình. Những câu ca thuộc chủ đề này  thường là những lời ru của mẹ, lời cha mẹ, ông bà nói với con cháu hoặc ngược lại nó là lời con cháu nói với cha mẹ ông bà nhằm bày tỏ những tình cảm về công ơn sinh thành, về tình mẫu tử, tình anh em ruột thịt.
3. Có thể kể thêm một số câu ca dao sau:
       - Công cha như núi Thái Sơn
         Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
       Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
 - Chiều chiều ra đứng ngõ sau
        Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
- Chiều chiều ra đứng bờ sông
              Muốn về quê mẹ mà không có đò.