Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài làm :
Trong bài " Sống chết mặc bay " của Phạm Duy Tôn , có rất nhiều những chi tiết vô cùng kì thú và độc đáo . Nó đã tạo lên sức hút đối với người đọc cũng như với người nghe . Nhưng riêng đối với em , thứ để lại ấn tượng nhất đó chính là tên quan phụ mẫu . Nó khiến cho em cảm thấy rõ được bộ mặt thật của những tên nhà giàu trong xã hội phong kiến đương thời.
Đầu tiên ; tính cách tham lam , ham sông của tên quan phụ mẫu đã được bài văn khắc họa rất rõ nét . Để che lấp đi trách nhiệm cai qaurn tính mạng của nhân dân , tên quan đã tức giận và đuổi cổ , dọa dẫm người đến báo là có lũ quét xảy ra . Trước khi túm cổ ra ngoài , tên quan còn dọa dẫm , quát mắng . Trong lời quát mắng , chửi rủa đó , tên quan đã nói lên lòng thản nhiên , vô trách nhiệm đối với người dân .
Không chỉ dừng lại như vậy ,sau khi quát mắng và đuổi cổ người báo tin , tên quan còn vẫn giữ tâm trạng thảnh thôi , ung dung và không lo lắng gì hết . Và khi đê vỡ , đó cũng chính là lúc quan thắng ván bài to nhất . Trong sự an toàn , không ảnh hưởng gì đến tính mạng thì ngoài kia biết bao nhiêu người dân đã chìm trong biển nước . Sự vô trách nhiệm của tên quan , bọn nhà giàu " ham sống sợ chết " đã khiến cho hàng trăm , hàng nghìn tính mạng , tài sản và cuộc sống của người dân ngập hết trong biển nước . Lòng thản dung ,thảnh thơi đặt tính mạng " ngàn cân treo sợi tóc " của người dân được tên quan coi như một chuyện bình thường , thản nhiên , không có gì là cần quan tâm cũng như chú ý đến .
Từ trên , nó đã khiến ta thấy được bộ mặt tàn ác , vô trách nhiệm đối với người dân của tên quan . Tố cáo những người cầm quyền mà không biết quan tâm , chú ý đến đời sống của người dân . Những kẻ cầm quyền đó không nên đáng có , nó chỉ làm cho xã hội ngày càng lạc hậu và không thể nào phát triển được .
Qua đó , ta thêm hiểu biết , thấm thía về những người giàu mà không quan tâm đến người dân .Lòng lang dạ thú đã khiến cho tên quan trở nên không quan tâm , quyền hành đã khiến cho những kẻ đó mù quáng , không có trách nhiệm đối với đời sống của người dân
Em tham khảo nhé !
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Bài "Sống chết mặc bay" đã lên án gay gắt ten quan phủ lòng lang dạ thú, Ở đây là tên quan phụ mẫu, được cử đến hộ đê nhưng hắn lại không hề ra chỉ đạo giúp dân mà hắn lại chỉ ngồi trong đình, chỗ vúng trĩa, cao ráo nhất để hưởng thụ. Quang cảnh tĩnh mịch, đèn tháp sáng trưng, kẻ hầu người hạ đi lại tấp nập. quan phủ uy nghi chễm chệ ngồi, có người quạt, người gãi chân, người hầu điếu đóm. Về khoản ăn uống thì ngài xơi bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, câu đậu, rễ tía,...lại thêm cả đồng hồ vàng, ống vôi bạc, ví thuốc, tăm bông,...đúng là một kẻ giàu sang lấy danh nghĩa đi hộ để để khoe khoang của cải
Bài này của mk là của cô mk cho viết nha, ko chép mạng đâu
tk
Viên quan phụ mẫu trong văn bản Sống chết mặc bay là một viên quan xấu xa và độc ác. Hắn ta mang danh là quan cha quan mẹ của nhân dân nhưng lại hành xử không xứng đáng với danh hiệu đó dù chỉ một chút. Trong khi nhân dân phải ngụp lặn trong màn mưa, nước lũ thì hắn lại thích chí ngồi trên đình cao mà hút thuốc phiện, uống chè yến, đánh tổ tôm. Trong khi người dân đau khổ, tuyệt vọng vì phải chịu mất trắng tất cả khi đê vỡ, thì hắn lại tập trung vui vẻ tận hưởng ván tổ tôm sắp ù. Tột đỉnh của sự căm phẫn, là tiếng gào thét đau đớn của người dân khi cơn lũ cuốn trôi tất cả cũng bị tiếng hét ù sung sướng của viên quan phụ mẫu. Biện pháp tương phản rõ rệt đã làm bật lên được lòng dạ độc ác, bạc bẽo đến đáng sợ của tên quan phụ mẫu kia. Qua đó, tác giả lên án và tố cáo mạnh mẽ những kẻ làm quan lại chỉ biết hưởng lạc mà không biết lo cho dân. Hình mẫu tên quan phụ mẫu độc ác trong truyện Sống chết mặc bay chính là tiêu biểu cho hằng hà những tên quan xấu xa như vậy trong xã hội hiện thực. Thật đáng buồn thay!
Qua tác phẩm Sống chết mặc bay thì dường như Phạm Duy Tốn đã khác họa thành công và rõ nét nhất thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu, xây dựng chân thật nhất một tên quan"lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi những con dân của mình đang "chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu - người phải chăm lo việc này lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng của con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật đúng là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói: "Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng, thời ông bỏ tù …..! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là một kẻ vô lương tâm, độc ác! Phải nói rằng, tác phẩm Sống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.
Qua tác phẩm "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn , dường như tác giả đã khắc họa thành công và rõ nét nhất bản chất xấu xa , bỉ ổi của tên quan phụ mẫu trước sinh mạng của người dân hộ đê khốn khổ. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật , "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phụ mẫu "lòng lang dạ thú". Khi con dân mình đang "chân lấm tay bùn , trăm lo nghìn sợ , đem thân hèn yếu mà đối với sức nước" thì quan phụ mẫu lại đang say sưa trong ván bài. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Quan chễm chệ ngồi trong đình , đèn thắp sáng trưng , đình cao vững chãi , kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp. Bên cạnh quan , bát yến hấp đường phèn , hai bên nào đồng hồ vàng , nhiều vật quý sang trọng khác. Quan như không hề hay biết đến tình cảnh thảm thương của dân chúng. Xây dựng hình ảnh quan phụ mẫu , Phạm Duy Tốn muốn tố cáo bản chất ích kỉ , tàn nhẫn , không có trách nhiệm với nhân dân. Qua đây , ta thấy "Sống chết mặc bay" đã lên án thái độ vô trách nhiệm , bàn quan của tên quan phụ mẫu , đồng thời thấy được niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với người dân khốn khổ lúc bấy giờ.
Hình ảnh của tên quan phụ mẫu lòng lang dạ sói, vô trách nhiệm, thờ ơ trước tính mạng của người dân đã được tác giả Phạm Duy Tốn thể hiện rất sinh động qua văn bản : "Sống chết mặc bay" (1). Là cha mẹ của dân, có trách nhiệm đi hộ đê giúp dân nhưng lại ngồi trong đình cao, vững chãi chơi tổ tôm (2). Trong đình đèn điện thắp sáng, kẻ hầu người hạ tấp nập cho ta thấy một bầu không khí nhộn nhịp để phục vụ quan ăn uống, nghỉ ngơi (3). Khi quan đánh bài, không khí trong đình bỗng yên tĩnh, ở đây tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không khí ngoài đê và trong đình (4). Ngoài đê " mưa gió ầm ầm, nước trút xuống ngày một mãnh liệt, xoáy thúc con đê ngày một yếu " dù vậy trong đình " không khí thật trang nghiêm " không ai dám to tiếng ngoài quan phụ mẫu (5). Quan ngồi uy nghi, chệm chễn, tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người hầu quỳ dưới đất mà gãi (6). Quan đi hộ đê mà mang theo bao người hầu kẻ hạ, cả những đồ dùng xa hoa, đắt tiền : " tráp đồi mồi, ống vôi chạm, đồng hồ vàng, ngoáy tai,... (7). Phép liệt kê của tác giả đã giúp miêu tả được chi tiết các đồ dùng của quan đồng thời cho ta thấy sự ăn chơi hưởng lạc, cuộc sống xa hoa của quan (8). Quan tập trung mọi tâm trí vào việc chơi bài mà không hề để ý đến việc hộ đê cũng như cảnh mưa gió càng lúc càng dữ dội bên ngoài (9). Khi tên nhà quê vào bẩm báo đê vỡ, quan lại sẵn sàng rũ bỏ trách nhiệm, đổ lỗi cho dân "ông cách cổ chúng mày, ... bỏ tù chúng mày" (10). Quan còn đe dọa, không muốn nghe bất cứ tin gì liên quan đến đê vỡ, sai lính đuổi cổ người dân phu ra ngoài để không bị làm phiền (11). Rồi quan lại hướng sự chú ý của mình vào ván bài đang dở, dù đê vỡ, nhà trôi, dân có chết thì cũng không quan trọng bằng việc người ta có bốc đúng quân mà ngài cần hay không (12). Đỉnh điểm của sự vô nhân tính chính là tâm trạng vui sướng của quan khi ù ván bài to, ngài vỗ tay xuống sập rồi kêu to, vừa xòe bài, miện vừa cười nói hả hê (13). Như vậy, lúc nhân dân lâm vào tình cảnh thảm sầu thì cũng là lúc tên quan sung sướng nhất, thật tàn ác làm sao ! (14). Tác giả đã sử dụng phép tương phản và tăng cấp để bộc lộ sự căm phẫn đối với tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm và sự thương xót, đồng cảm cho số phận bất hạnh của người dân (15).
Qua truyện "Sống chết mặc bay", Phạm Duy Tốn đã khắc họa chân dung về tên quan phụ mẫu thờ ơ, vô trách nhiệm trước tình cảnh thống khổ của nhân dân.mặc cho nhân dân phải lam lũ chống chọi với thiên tai. Khinh bỉ thay, phẫn nộ thay cho tên vô nhân đạo, lòng lang dạ sói đến thế, hắn nào có đi hộ đê mà đem theo bao nhiêu thứ: nào yến hấp đường phèn, nào ống thuốc bạc, nào dao chuôi ngà, nào tăm bông…Trong lúc lũ con dân của hắn đang tầm tả ngoài kia mà hắn có thể ăn chơi phè phỡn trên nỗi khổ của họ. Nhưng đỉnh điểm khi được thông báo rằng đê đã vỡ, nhưng tên quan vô lương tâm ấy không những không nghĩ cách cứu đê mà còn quát mắng, đem tội lỗi đổ đầu lên con dân. Khi đê vỡ cũng là lúc quan ù ván bài to nhất, tình cảnh bên ngoài rơi vào cảnh nghìn sầu muôn thảm - người sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn.Sự vô trách nhiện của tên lòng lang dạ thú đã dẫn đến hậu quả cho nhân dânSống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.
Tham khảo
Qua tác phẩm Sống chết mặc bay thì dường như Phạm Duy Tốn đã khác họa thành công và rõ nét nhất thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu, xây dựng chân thật nhất một tên quan"lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi những con dân của mình đang "chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu - người phải chăm lo việc này lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng của con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật đúng là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói: "Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng, thời ông bỏ tù …..! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là một kẻ vô lương tâm, độc ác! Phải nói rằng, tác phẩm Sống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.