Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tóm tắt truyện “Cây khế” :
Ngày xưa ở một nhà kia có hai anh em, cha mẹ mất sớm để lại cho một khối gia tài. Vợ chồng người anh tham lam giành hết chỉ chừa lại cho người em một gian nhà lụp xụp, trước cửa có một cây khế ngọt. Vợ chồng người em chăm chỉ làm ăn và chăm sóc cây khế chu đáo. Đến mùa khế ra rất nhiều quả. Bỗng một hôm có con chim lạ đến ăn khế. Vợ chồng người em than thở và chim lạ liền bảo người em may túi ba gang để chim trả ơn. Hôm sau, chim đưa người em ra đảo lấy vàng và trở về. Từ đó, người em trở nên giàu có. Người anh hay tin, lân la đến dò hỏi và đổi cả gia tài của mình để lấy túp lều cùng cây khế. Đến mùa khế chín, chim đại bàng lại đến và cũng ngỏ ý sẽ trả ơn. Người anh vì tham lam nên đã may túi to để dựng được nhiều vàng. Trên đường đi lấy vàng về vì quá nặng nên người anh đã bị rơi xuống biển và chết.
Câu 1 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương thuộc kiểu nhân vật phổ biến trong truyện cổ tích:
- Nhân vật có tài lạ, luôn dùng tài năng để giúp đỡ người nghèo, chống lại kẻ độc ác, tham lam
- Một số nhân vật tương tự như Thạch Sanh, Sọ Dừa…
Câu 2 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương có tài vẽ giỏi là vì:
- Say mê, yêu thích việc vẽ, và có năng khiếu sẵn có của bản thân
- Luôn luôn tập vẽ ở mọi nơi, mọi lúc
- Cây bút thần chính là phần thưởng cho những nỗ lực và sự say mê học tập của Mã Lương
- Nhờ có cây bút thần Mã Lương việc vẽ của em trở nên hữu ích.
- Chỉ có Mã Lương mới sử dụng được cây bút như ý em mong muốn
→ Mối quan hệ giữa tài năng, đức độ và sự thần kì
Câu 3 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Mã Lương vẽ cho người nghèo:
- Vẽ cho người nghèo: những vật dụng cần thiết, là công cụ lao động chứ không phải là vàng bạc, đồ ăn
- Với kẻ tham lam: kiên quyết không vẽ, hoặc vẽ sai lệch so với yêu cầu
+ Mã Lương vẽ các phương tiện trốn thoát khỏi nhà địa chủ và trừng phạt hắn
+ Em giả vờ nghe theo lời của nhà vua rồi vẽ bão tố nhấn chìm tên vua độc ác
→ Mã Lương vẽ cho người nghèo, em cự tuyệt vẽ cho những kẻ tham lam, độc ác. Mã Lương cũng thực hiện sứ mệnh của mình khi vẽ cung tên, báo tố nhấn chìm kẻ độc ác như tên địa chủ và vua.
Câu 4 (Trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Những chi tiết lý thú độc đáo trong truyện:
- Khi bị địa chủ nhốt trong chuồng ngựa, em vẽ lò sưởi và bánh nướng, sau đó vẽ thang chạy trốn
- Mã Lương đánh rơi giọt mực vào bức tranh con cò không mắt, cò bỗng cất cánh bay.
- Mã Lương vẽ con cóc ghẻ và con gà trụi lông trước sự tham lam của nhà vua.
Câu 5 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Ý nghĩa truyện cây bút thần:
- Truyện cây bút thần thể hiện ước mơ của nhân dân có được sức mạnh diệu kì để giúp đỡ người lao động bình thường và trừng phạt những kẻ tham lam, độc ác
- Truyện cũng khẳng định tài năng chỉ có thể phát huy được tác dụng khi phục vụ nhân dân, thực hiện những mục đích chính nghĩa
- Khẳng định chắc chắn nghệ thuật chân chính là sự say mê, quyết tâm theo đuổi ước mơ của con người. Nghệ thuật chân chính cứu rỗi và thể hiện niềm tin vào khả năng kì diệu của con người.
Luyện tập
Bài 1 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Kể diễn cảm truyện
Bài 2 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 1) Truyện cổ tích là loại truyện kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc:
+ Nhân vật bất hạnh
+ Nhân vật dũng sĩ, nhân vật có tài năng kì lạ
+ Nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch
+ Nhân vật là động vật có tính cách như người
- Truyện cổ tích có yếu tố hoang đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng của cái thiện trước cái ác.
Các bài soạn văn lớp 6 hay khác:
- Luyện nói kể chuyện
- Cây bút thần
- Danh từ
- Ngôi kể trong văn tự sự
- Ông lão đánh cá và con cá vàng
Các bài văn mẫu về truyện Cây bút thần hay:
- Phân tích truyện Cây bút thần
- Kể tóm tắt truyện Cây bút thần
- Kể diễn cảm truyện Cây bút thần
Bài này lấy từ Google, mời em tham khảo!
Mã Lương là một em bé thông minh, mồ côi nghèo khổ say mê học vẽ, vẽ giỏi, ao ước có một cây bút vẽ. Được thần thưởng cho cây bút thần.
Có bút thần trong tay em vẽ các sự vật trở thành vật thật. Em vẽ cho người nghèo công cụ lao động. Việc đến tai tên địa chủ, em bị hắn bắt vẽ theo ý hắn. Mã Lương kiên quyết không vẽ, trừng trị hắn rồi bỏ đi vùng khác. Em vẽ tranh để kiếm sống, sơ ý để lộ tài năng. Vua đã bắt em về vẽ theo ý muốn . Mã Lương chống lại nên bị bắt giam vào ngục. Vua cướp bút thần để vẽ nhưng không thành. Mã Lương được thả, em vờ đồng ý, rồi vẽ biển, vẽ sóng to gió lớn trừng trị tên vua tham lam, độc ác. Mã Lương trở về với nhân dân đem tài năng vẽ cho người nghèo khổ.
Xem thêm tại Google !
Mã Lương là cậu bé mồ côi thông minh và say mê học vẽ từ nhỏ. Em vẽ khắp nơi trốn núi, ven sông, dưới nước, trên tường... nhưng vì nghèo, cậu ước ao được vẽ tranh nhưng vẫn không mua được bút vẽ.
Một hôm em nằm mơ được cụ già râu tóc bạc phơ cho chiếc bút thần bằng vàng. Mã Lương cảm ơn và vô cùng vui sướng.
Mã Lương vẽ chim, chim bay lên trời, vẽ cá, cá trườn xuống sông. Em vẽ cuốc, vẽ cày, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước cho người nghèo trong làng.
Tên địa chủ biết chuyện bèn sai đầy tớ bắt Mã Lương về vẽ cho hắn. Bị từ chối, hắn tức giận, đem giam Mã Lương vào chuồng ngựa và bỏ đói.
Mã Lương vẽ bánh để ăn, vẽ lò để sưởi. Địa chủ tức giận sai đầy tớ giết Mã Lương để cướp bút thần. Mã Lương vẽ thang trốn ra ngoài, vẽ ngựa để chạy trốn, vẽ cung tên bắn chết tên địa chủ đang cầm dao đuổi theo.
Dừng chân ở một thị trấn, Mã Lương vẽ tranh bán để kiếm sống. Vì sơ ý để lộ cây bút thần. Tên vua tham lam, tàn ác bắt Mã Lương vẽ theo ý hắn. Mã Lương cũng không chịu, em thậm chí còn chơi khăm nhà vua. Thay vì vẽ rồng, vẽ phượng, Mã Lương vẽ con cóc ghẻ, con gà trụi lông. Vua tức giận cướp lấy cây bút thần nhưng hắn vẽ núi vàng thì thành ra núi đá, vẽ cả thỏi vàng thì thành ra con mãng xà toan nuốt chửng cả vua.
Thấy không ăn thua, vua bèn xuống nước dỗ dành và hứa gả công chúa cho Mã Lương. Mã Lương vờ đồng ý rồi vẽ biển xanh, vẽ thuyền rồng cho vua cùng cả triều thần đi chơi ngắm cá. Cuối cùng, Mã Lương vẽ cuồng phong dữ dội nhấn chìm thuyền rồng, chôn vùi tên vua tham lam, độc ác.
Sau đó không ai biết Mã Lương đi đâu. Có người nói em đã trở về quê cũ nhưng cũng có người nói em đi khắp nơi, dùng cây bút thần để giúp đỡ những người nghèo.
♥ CHÚC BẠN HOK TỐT ♥
Mã Lương là cậu bé mồ côi thông minh và say mê học vẽ từ nhỏ. Em vẽ khắp nơi trốn núi, ven sông, dưới nước, trên tường... nhưng vì nghèo, cậu ước ao được vẽ tranh nhưng vẫn không mua được bút vẽ.
Một hôm em nằm mơ được cụ già râu tóc bạc phơ cho chiếc bút thần bằng vàng. Mã Lương cảm ơn và vô cùng vui sướng.
Mã Lương vẽ chim, chim bay lên trời, vẽ cá, cá trườn xuống sông. Em vẽ cuốc, vẽ cày, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước cho người nghèo trong làng.
Tên địa chủ biết chuyện bèn sai đầy tớ bắt Mã Lương về vẽ cho hắn. Bị từ chối, hắn tức giận, đem giam Mã Lương vào chuồng ngựa và bỏ đói.
Mã Lương vẽ bánh để ăn, vẽ lò để sưởi. Địa chủ tức giận sai đầy tớ giết Mã Lương để cướp bút thần. Mã Lương vẽ thang trốn ra ngoài, vẽ ngựa để chạy trốn, vẽ cung tên bắn chết tên địa chủ đang cầm dao đuổi theo.
Dừng chân ở một thị trấn, Mã Lương vẽ tranh bán để kiếm sống. Vì sơ ý để lộ cây bút thần. Tên vua tham lam, tàn ác bắt Mã Lương vẽ theo ý hắn. Mã Lương cũng không chịu, em thậm chí còn chơi khăm nhà vua. Thay vì vẽ rồng, vẽ phượng, Mã Lương vẽ con cóc ghẻ, con gà trụi lông. Vua tức giận cướp lấy cây bút thần nhưng hắn vẽ núi vàng thì thành ra núi đá, vẽ cả thỏi vàng thì thành ra con mãng xà toan nuốt chửng cả vua.
Thấy không ăn thua, vua bèn xuống nước dỗ dành và hứa gả công chúa cho Mã Lương. Mã Lương vờ đồng ý rồi vẽ biển xanh, vẽ thuyền rồng cho vua cùng cả triều thần đi chơi ngắm cá. Cuối cùng, Mã Lương vẽ cuồng phong dữ dội nhấn chìm thuyền rồng, chôn vùi tên vua tham lam, độc ác.
Sau đó không ai biết Mã Lương đi đâu. Có người nói em đã trở về quê cũ nhưng cũng có người nói em đi khắp nơi, dùng cây bút thần để giúp đỡ những người nghèo.
Xưa, có hai vợ chồng già sống nhân hậu mà vẫn chưa có con. Ngọc Hoàng cho Thái tử xuống trần đầu thai làm con hai vợ chồng già ấy. Đó là Thạch Sanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ, sống ở gốc đa và được các thiên tướng dạy cho võ nghệ. Lí Thông dỗ Thạch Sanh kết nghĩa anh em với mình. Năm ấy, Lí Thông phải đi nộp mạng cho Chằn Tinh. Hắn đã lừa Thạch Sanh đi thế mạng với lí do đi canh miếu thờ. Thach Sanh đã giết chết Chằn Tinh, đốt xác nó và được cây cung vàng. Thế nhưng, Lí Thông đã cướp công Thạch Sanh, Thạch Sanh lại về sống ở gốc đa.
Thạch Sanh giết chằn tinh nhưng bị Lí Thông cướp công
Lí Thông dâng đầu Chằn Tinh và được vua cho làm quan. Lí Thông nhờ Thạch Sanh giết đại bàng cứu công chúa. Thạch Sanh xuống hang, giao chiến với Đại bàng và cứu được công chúa nhưng sau khi đưa được công chúa lên khỏi hang. Lí Thông đã lấp hang để giết Thạch Sanh. Chàng lại cứu được con vua Thuỷ Tề và được vua Thuỷ Tề tặng cho cây đàn thần.
Nhờ mang cây đàn thần ra gảy khi bị giam trong ngục do hồn Chằn Tinh và hồn Đại bàng trả thù, Thạch Sanh đã được minh oan, được vua gả công chúa cho. Còn Lí Thông bị trời phạt.
Thái tử 18 nước chư hầu vì không được vua gả con gái cho, đã kéo quân sang đánh nước ta. Thạch Sanh đem đàn ra gảy và lui được quân các nước chư hầu. Chàng cũng đã hào phóng cho họ ăn cơm đựng trong niêu cơm th
Thạch Sanh vốn là thái tử, được Ngọc hòang phái xuống làm con của vợ chồng người nông dân nghèo. Cha mẹ mất sớm, chàng sống lủi thủi dưới gốc cây đa. Bị Lí Thông lợi dụng, chàng đã dũng cảm diệt chằn tinh,rồi diệt đại bàng cứu công chúa nhưng rồi đều bị Lí Thông cướp công. Hồn chằn tinh và hồn đại bàng vu oan, Thạch Sanh bị vào ngục. Nhờ cứu con vua Thủy Tề trước đó, chàng có cây đàn đem ra gảy, được giải oan, Lí thông bị trừng trị. Thạch Sanh cưới công chúa và được nối ngôi vua.
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.
Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.
Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
từng này hoi nha
t.i.c.k đc ko please!!!
Phrăng đi học muộn và định trốn học nhưng rồi em vẫn đến trường dù đã trễ giờ. Em đi qua trụ sở xã, thấy có nhiều người đứng trước bảng cáo thị nhưng em không để ý. Em vào lớp muộn và rất ngạc nhiên khi thầy Ha-men không mắng như mọi khi. Em còn ngạc nhiên vì trong lớp có cả ông xã trưởng, cụ Hô-de và những người khác, họ ăn mặc rất trang trọng.
Thầy Ha-men đã thông báo cho cả lớp biết đó là bài học tiếng Pháp cuối cùng bởi quân Phổ đã ra lệnh chỉ được dạy tiếng Đức ở các trường trong vùng An-đát và Lo-ren. Phrăng choáng váng, ân hận vì mình đã lười học tiếng Pháp.
Trong buổi học cuối cùng đó, thầy Ha-men đã nói với tất cả mọi người trong lớp về tiếng Pháp, khuyên mọi người giữ lấy nó bởi "Một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nào nắm được chìa khoá chốn lao tù". Thầy đã cho học sinh tập viết tên quê hương An-dát, Lo-ren. Trong tâm trạng ân hận, Phrăng và cả lớp đã tập trung hết sức vào bài học.
Đồng hồ nhà thờ điểm 12 tiếng, tiếng kèn của bọn lính Phổ vang lên. Thầy Ha-men dùng hết sức viết lên bảng bốn chữ "Nước Pháp muôn năm" và kết thúc buổi học trong nỗi xúc động tận cùng.
Phrăng đi học muộn và định trốn học nhưng rồi em vẫn đến trường dù đã trễ giờ. Em đi qua trụ sở xã, thấy có nhiều người đứng trước bảng cáo thị nhưng em không để ý. Em vào lớp muộn và rất ngạc nhiên khi thầy Ha-men không mắng như mọi khi. Em còn ngạc nhiên vì trong lớp có cả ông xã trưởng, cụ Hô-de và những người khác, họ ăn mặc rất trang trọng.
Thầy Ha-men đã thông báo cho cả lớp biết đó là bài học tiếng Pháp cuối cùng bởi quân Phổ đã ra lệnh chỉ được dạy tiếng Đức ở các trường trong vùng An-đát và Lo-ren. Phrăng choáng váng, ân hận vì mình đã lười học tiếng Pháp.
Trong buổi học cuối cùng đó, thầy Ha-men đã nói với tất cả mọi người trong lớp về tiếng Pháp, khuyên mọi người giữ lấy nó bởi "Một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nào nắm được chìa khoá chốn lao tù". Thầy đã cho học sinh tập viết tên quê hương An-dát, Lo-ren. Trong tâm trạng ân hận, Phrăng và cả lớp đã tập trung hết sức vào bài học.
Đồng hồ nhà thờ điểm 12 tiếng, tiếng kèn của bọn lính Phổ vang lên. Thầy Ha-men dùng hết sức viết lên bảng bốn chữ "Nước Pháp muôn năm" và kết thúc buổi học trong nỗi xúc động tận cùng.
K NHA BN
Tóm tắt: Sọ Dừa
Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo, ăn ở hiền lành, đã ngoài năm mươi nhưng vẫn chưa có con. Một hôm người vợ ra đồng khát nước, thấy cái sọ dừa đầy nước, bà bèn uống nước, sau đó mang thai và sinh ra đứa trẻ không chân, không tay, tròn như quả dừa. Bà nuôi nấng, tới khi lớn lên, Sọ Dừa nhờ mẹ xin phú ông cho đi chăn bò. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Một hôm, cô con gái út nhà phú ông mang cơm thì thấy Sọ Dừa là một chàng trai khôi ngô nên đem lòng yêu thương, có của ngon đều giấu cho chàng. Cuối mùa, Sọ Dừa giục mẹ sang đến hỏi con gái phú ông làm vợ, chỉ có cô con gái út đồng ý làm vợ Sọ Dừa. Ngày cưới, Sọ Dừa bước ra là một chàng trai tuấn tú. Trước khi Sọ Dừa lên kinh thi dặn dò vợ luôn mang theo mình quả trứng gà, con dao, hòn đá lửa. Sau đó, vợ Sọ Dừa bị hai chị hãm hại, nàng bị cá kình nuốt cô vào bụng. Cô lấy dao, rạch bụng cá, thoát chết, trôi dạt vào một hòn đảo. Đến khi Sọ Dừa đỗ quan trạng trở về, Sọ Dừa đón vợ trên đảo trở về và mở tiệc mừng. Hai cô chị sau bữa tiệc nhìn thấy em út xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Trong kho tàng văn học dân gian, thể loại truyện mà tôi ưa thích nhất là truyện cổ tích. Truyện cổ tích mở ra một thế giới muôn màu muôn vẻ, từ phong tục tập quán đến mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Câu chuyện tôi kể các bạn nghe phản ánh một mặt của đời sống xã hội. Câu chuyện có tên là Cây khế. Tôi sẽ kể theo lời của người em trong câu chuyện này.
Có lẽ suốt cuộc đời này, điều khiến tôi day dứt nhất và cũng là điều đau khổ nhất đối với tồi đó là cái chết của anh trai tôi. Nếu tôi không nói chuyện vì sao tôi trở nên giàu có cho anh tôi biết và nếu tôi không nhận lời đổi mảnh vườn có cây khế thì bây giờ anh tôi vẫn còn sống bên người vợ thân yêu của mình. Câu chuyện của hai anh em tôi được bắt đầu như thế này: Hồi ấy, bố mẹ tôi mất sớm, lúc chia gia tài, anh tôi lấy hết nhà cửa ruộng vườn, chỉ để lại cho tôi một mảnh vườn nhỏ trong đó có một cây khế. Hai vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả, cày thuê cuốc mướn sống lần hồi qua ngày.
Năm nào cây khế cũng sai trĩu quả, hai vợ chồng tôi hái khế đem ra chợ bán, đủ tiền đong gạo. Một buổi sáng, khi tôi ra vườn bỗng thấy một con chim lạ đang mổ khế để ăn. Tôi buông lời than thở:
- Chim ơi! Nhà ta nghèo lắm, cả gia tài chỉ có mỗi cây khế này, chim đừng ăn khế của ta.
Chim bỗng kêu lên thành tiếng người:
"Ăn một quả. Trả cục vàng. May túi ba gang. Mang đi mà đựng"
Tôi vội kể chuyện đó cho vợ tôi nghe. Tin lời chim, vợ chồng tôi liền kiếm vải cũ chắp nối may thành cái túi ba gang. Sáng hôm sau, chim lạ đến đưa tôi đi lấy vàng. Trên sườn núi, những thỏi vàng óng ánh, trông lóa cả mắt. Tôi nhặt vàng bỏ đầy túi ba gang rồi cưỡi lên lưng chim trở về vườn cũ. Từ đó vợ chồng tôi trở nên giàu có.
Vợ chồng anh tôi vốn có tính tham lam, thấy tôi tự nhiên trở nên giàu cò bèn gạ gẫm hỏi chuyện tôi. Tôi thật thà kể lại câu chuyện cho anh tôi nghe. Hôm sau, anh đến nói với tôi:
- Anh đổi cả gia tài của anh để lấy mảnh vườn có cây khế của chú.
Chiều lòng anh, vợ chồng tôi nhận lời và dọn về nhà anh ở.
Từ ngày đổi được cây khế, anh tôi nóng ruột đợi chờ. Rồi một buổi sáng, chim lạ lại đến ăn khế. Hai vợ chồng anh tôi mừng quýnh. Anh tôi cũng giả vờ than thở và chim cũng kêu lên thành tiếng như lần trước. Hai vợ chồng anh tôi liền lấy vải may một cái túi mười hai gang. Sáng hôm sau, chim cũng đưa anh đến đảo lấy vàng. Anh tôi nhặt vàng nhét đầy cái túi to tướng rồi ì ạch leo lên mình chim.
Vàng nhiều nên chim bay rất chậm. Đến giữa biển, đôi cánh chim mỏi rã rời. Trời đã tối, bất chợt gặp cơn gió mạnh, chim không gượng được, bay lảo đảo, lật mình một cái, anh tôi và cái túi đầy vàng rơi tỏm xuống biển.
Tôi vừa trách mình, vừa giận anh trai tôi. Nếu anh không tham lam có lẽ cuộc sống của anh sẽ mãi mãi tốt đẹp. Nhớ anh, tôi trào nước mắt.
Kể lại câu chuyện cây khế bằng lời của người em trai mẫu 5
Ngày xửa, ngày xưa trong gia đình nọ có hai anh em mồ cô cha mẹ từ nhỏ, họ sống với nhau hòa thuận cho đến khi người anh lấy vợ.Khi có cuộc sống riêng người anh không còn muốn sống cùng em mình nữa, gọi người em đến và phân chia tài sản.Với tính tình tham lam, ích kỉ khi chia gia tài,anh ta nhận hết nhà cửa, ruộng vườn mà cha mẹ để lại chỉ để cho em trai mình một túp lều tranh và mảnh vườn nhỏ với cây khế trước nhà. Người em vốn hiền lành, nên không trách cứ gì anh vẫn vui vẻ đồng ý với quyết định đó. Hằng ngày, cậu em chăm chỉ làm lụng, cày cuốc để lo cho cuộc sống của mình, và cũng không quên chăm sóc cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vườn bỗng sai quả lạ thường cành nào cành ấy trĩu nặng quả. Người em vui lắm cứ nghĩ cây khế sai như thế này mình sẽ mang đi chợ bán chắc chắn sẽ đổi được nhiều gạo để dự trữ trong nhà. Một hôm, vừa đi làm về người em thấy trên cây khế có một con chim lớn đang ăn khế của chàng. Người em thấy thế, liền xua đuổi chim đi và nói:
- Chim ơi, nhà tôi chỉ có một cây khế này thôi, tôi định bán khế lấy tiền đong gạo. Chim ăn hết thì tôi sống bằng gì?
Lạ kì thay con chim bỗng dừng lại không ăn khế của chàng nữa, mà nói với chàng rằng:
- Ăn một quả, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang ra mà đựng.
Người em thấy chim biết nói tiếng người, biết đây là loài chim lạ, nên chàng không đuổi nó đi nữa, mà để cho nó ăn. Chàng nghĩ bụng, chim có ăn thêm mấy quả nữa cũng không hết được cả cây huống hồ, con chim này còn biết cất tiếng nói. Mấy hôm sau, con chim lại đến ăn khế và nó vẫn nói như lần trước với người em, chàng thấy lạ lắm bèn vào nhà lấy những mảnh vải vụn, may vừa một chiếc túi ba gang như lời chim dặn. Chim thấy người em đã chuẩn bị xong bèn sà xuống mặt đất, đỡ người em lên lưng mình, rồi cất cánh bay thẳng lên bầu trời. Ngồi trên lưng chim, người em thấy cả vùng rộng lớn nào sông, nào biển rồi những núi non trùng điệp, mà chàng chưa bao giờ thấy cảnh đẹp hùng vĩ như vậy. Chim đưa chàng đi mãi, rồi dừng lại ở một hòn đảo đầy vàng bạc, châu báu. Người em vô cùng sửng sốt, vì chàng không ngờ có nơi chứa đựng cả kho báu lớn đến như vậy, chàng đi xung quanh ngắm nhìn thỏa thích và lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi nhờ chim đưa về nhà. Từ đó về sau cuộc sống của người em trở nên khấm khá hơn, không những có của ăn của để mà chàng còn giúp đỡ người nghèo khó, dân làng ai cũng quý mến chàng.
Vợ chồng người anh thấy em mình bỗng dưng giàu có, bèn sang nhà hỏi chuyện, dò la. Sau khi nghe em trai kể câu chuyện về con chim ăn khế trả vàng, vợ chồng người anh nảy sinh lòng tham, bèn ngon ngọt dỗ cậu em, để đổi toàn bộ gia tài của mình lấy mảnh vườn và cây khế nhà. Người em vui vẻ đổi cho anh.Thế là người anh chuyển sang nhà em ở.Vợ chồng người anh chờ mãi, cuối cùng cũng đến lúc khế ra quả. Và con chim lạ cũng đến ăn khế. Lúc này người anh nhớ lại, câu chuyện em kể. Người anh giả vờ khóc nóc, nài nỉ để chim đừng ăn khế nhà mình. Chim bèn nói: Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang, mang ra mà đựng.Người anh thấy thế vui lắm, cứ nghĩ mình có được cơ hội đến đảo vàng để mang về được nhiều châu báu rồi đây. Bèn vào nhà nói với vợ tìm trong nhà những mảnh vải tốt nhất may túi 12 gang thật chắc để đi lấy vàng. Lần sau, khi chim đến ăn khế rồi đưa anh đi lấy vàng. Vừa đi đến nơi, người anh đã vội tìm những thỏi vàng to nhất, nặng nhất nhét đầy túi 12 gang, anh cứ mải đi lại giữa đống châu báu đến chiều mới chịu ra về. Trước khi lên lưng chim, anh còn tham lam nhét đầy vàng vào người. Chim cố gắng cất cánh bay, nhưng vì đường xa mà vàng nặng quá nên cánh chim cứ chao đảo, mấy lần suýt rơi xuống biển, thấy thế chim bèn nói với người anh bỏ bớt vàng đi để có thể an toàn trở về nhà. Nhưng vì tính quá tham lam, tiếc của anh không nghe lời cứ giữ khư khư chỗ vàng. Chim thấy thế bực tức, nó nghiêng cánh hất người anh tham lam cùng túi vàng xuống biển.
Nếu như không tham lam thì người anh đã có cuộc sống ấm no hạnh phúc bên gia đình, nhưng cũng chỉ vì sự ích kỉ của bản thân mà anh ta phải bỏ mạng nơi biển khơi sâu thẳm.
Tham khảo:
Ai đã một lần đến vườn nhà tôi đề.u quan sát và trầm trồ khen ngợi cây khế ở vườn nhà. Nó là dấu ấn trong cuộc đời tôi. Nhìn cây khế tôi nhớ về câu chuyện buồn giữa tôi và người anh ruột của tôi đã vĩnh viễn ra đi.
Ngày ấy, tôi rất mến anh trai. Khi cha mẹ tôi qua đời, nhà cửa ruộng vườn đều thuộc về anh. Tôi chỉ có một túp lều nhỏ và một cây khế ở cuối vườn. Biết phận mình là em nên không dám đòi hỏi gì hơn, tôi chỉ ngày ngày chăm chút cho cây, mong cây đơm quả ngọt. Cây không phụ lòng tôi, khế xanh và lớn nhanh trông thấy. Rồi một ngày kia, cây trô hoa. Ôi! Những chùm hoa khế mới đẹp làm sao! Tôi cứ cần mẫn chăm cây và mong cây đơm hoa kết trái. Sự mong chờ đón đợi của tôi cũng đến. Từng chùm quả vàng đã chiu chít trên cành. Nhờ có cây khế mà vợ chồng tôi sống được qua ngày. Một hôm nọ, tôi nhìn thấy một con chim lạ đậu trên cành cây, nó ăn hết quả này đến quả khác.
Tôi sốt ruột vô cùng nhưng cùng chăng đành lòng xua đuôi chim đi. Tôi chỉ đứng dưới gốc than thở với chim: Gia tài tôi chỉ có cây khế này, chim ăn hết tôi sống làm sao? Chim bỗng kêu lên:
Ăn một quả khế
Trả một cục vàng
May túi ba gang
Mang đi mà đựng.
Nghe lời chim lạ, tôi bảo vợ tìm vải cũ may cái túi ba gang. Hôm sau, chim đến nhà tôi bảo tôi ngoi lên lưng nó đê đi lấy vàng. Chim chở tôi đi đến đáo vàng. Ngồi trên lưng chim, tôi nhìn thấy trời, thấy biến, thấy đồng ruộng phì nhiêu. Đen nơi, chim hạ cánh và bảo tôi nhặt vàng bỏ vào cái túi để chim chở về. Tôi làm theo lời chim dặn, chỉ lấy vàng bỏ vào vừa đủ túi ba gang. Tôi được chim chở về. Nhờ có số vàng ấy, gia đình tôi được sống sung túc hơn.
Thấy gia đình tôi làm ăn kham khá, anh trai sang hỏi xem sao. Tôi thật lòng kê lại chuyện lạ cho anh nghe. Anh bảo tôi phải đối cây khế lấy nhà cửa ruộng vườn của anh. Tôi vốn chiều lòng anh nên nhất nhất nghe theo. Hằng ngày, anh cử chăm bằm ngồi dưới gốc đê trông chờ chim lạ. Hôm nọ, chim lạ đên ăn khê. Anh cũng than thở như tôi. Chim cùng kêu lên như lần trước. Anh mừng quá liền bảo vợ may cái túi mười hai gang. Chim cũng đến chở anh đi lấy vàng. Đen đào vàng, anh lấy vàng bở đầy túi rồi nhét thêm vào bụng, vào lưng. Anh ì ạch leo lên lưng chim đề được chở về. Dọc đương bay, chim thấy nặng nên bảo anh bở bót vàng xuống. Anh không nghe lời chim, mặc cho lời yêu cầu của chim lạ. Bay giữa biển, chim mỏi cánh nên chao đáo. Anh vẫn khư khư ôm lấy túi vàng. Thế là anh và túi vàng nặng trịch ấy rơi tòm xuống biên.
Tuy anh tham lam, xem nhẹ tình anh em, nhưng đối với tôi, tình thâm nghĩa nặng làm sao tôi quên được. Tỏi nghĩ răng: giá như anh tôi đừng tham lam thì đâu đến nỗi có kết cục bi thương như thế.
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.
Ở nhà nọ có 2 anh em mồ côi cha mẹ từ bé. Người anh chia gia tài,nhận tất tài sản, người em chỉ được nhận cây khế. Cây khế có quả, có một con chim đến ăn, người em phàn nàn và con chim hẹn sẽ trả ơn bằng vàng. Chim chở người em bay ra đảo lấy vàng, nhờ vậy nên người em trở nên giàu có. Người anh nghe chuyện liền đổi gia tài của mình để lấy cây khế của người em, người em bằng lòng. Khi con chim lại đến ăn, mọi chuyện diễn ra như cũ nhưng người anh may túi quá to và lấy quá nhiều vàng. Người anh bị rơi xuống biển và chết.