Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a)
rộn ràng,chễm chện,chốc chốc,điếu đóm,khay khảm,
=>để nhấn mạnh tình trạng, tâm trạng muốn thể hiện
=>để xác định chính xác từ ngữ cần sử dụng trong câu văn, lời nói
b
-chân lấm tay bùn
-kẻ hầu người hạ
-mưa gió ầm ầm
-gội gió tắm mưa
-như thần như thánh
-trời long đất lở
-nghìn sâu muôn thảm
-người hầu kẻ hạ
-...........

Tùng...Tùng...Tùng...Tiếng trống trường vang lên thật giòn giã báo hiệu giờ ra chơi đã (câu đặc biệt) đến. Các bạn học sinh từ các dãy nhà tầng ùa ra sân trường như đàn ong vỡ tổ. Trên sân trường đông vui nhộn nhịp ấy, các bạn học sinh chơi đủ thứ trò chơi. Từ nhảy dây (câu có trạng ngữ) cho đến đá cầu. Nhưng đâu phải cứ ra chơi là ai cũng xuống sân, vẫn có những bạ đứng câu đặc biệt trên ban công. Tán gẫu và vui đùa. (câu rút gọn)
Mùa đông.Sựu lạnh giá đều khiến tôi nhớ lại vào một hôm lúc tôi đang đi trên đường giữa trời tuyết lạnh giá ,thì chợt thấy một cậu bé với quần áo nhem nhuốc
Tôi bèn cởi mở làm quen:
Chào cháu!Tại sao cháu lại ở đây giwuax mùa dông thế này,sao cháu không về nhà mà sưởi ấm?
Cậu bé liền trả lời nhưng với một vẻ mặt buồn rầu:
Dạ!Mẹ của cháu đang bệnh nặng nên cháu đang đi kiếm tiền để chữa bệnh cho mẹ cháu ạ.
Tôi ngỡ ngàng trước hoàn cảnh của cậu bé,vừa xúc động vừa thương cho hoàn cảnh khó khăn của cậu bé
Tôi bèn đáp:
Vậy thì chú sẽ tặng cháu một ít tiền để cháu chữa bênh cho mẹ nhé!
Tôi đưa cho cậu bé một số tiền,đối với cậu bé,câu đã nhảy cẫng lên vì vui sướng,bèn đáp:
Cháu cảm ơn bác ạ!
Tôi vui vẻ tiếp tục đi tiếp,đi được một đoạn dài thì bống cậu bé chỉ lấp loáng trong sương mù rồi tan biến trong làn sương.
Câu rút gọn là mùa đông.sự lanh giá.Tác dụng của câu rút gọn là
Giúp câu trở nên ngắn gọn hơn và giúp chuyển tải thông tin đến người đọc/người viết nhanh chóng, đồng thời tránh việc lặp từ ngữ ở phía trước.
~Chúc bạn học tốt!~

đây là 1 số từ thông dụng tiếng hán việt bạn tham khảo có nghĩa đấy
- NỮ: Gái
- NAM: Trai
- ĐÁI: Đai
- QUAN: Mũ
- TÚC: Đủ
- ĐA: Nhiều
- ÁI: Yêu
- TĂNG: Ghét
- THỨC: Biết
- TRI: Hay
- MỘC: Cây
- CĂN: Rễ
- DỊ: Dễ
- NAN: Khôn (khó)
- CHỈ: Ngon
- CAM: Ngọt
- TRỤ: Cột
- LƯƠNG: Rường
- SÀNG: Giường
- TỊCH: Chiếu
- KHIẾM: Thiếu
- DƯ: Thừa
- SỪ: Bừa
- CÚC: Cuốc
- CHÚC: Đuốc
- ĐĂNG: Đèn
- THĂNG: Lên
- GIÁNG: Xuống
- ĐIỀN: Ruộng
- TRẠCH: Nhà
- LÃO: Già
- ĐỒNG: Trẻ
- TƯỚC: Sẻ (chim Sẻ)
- KÊ: Gà
- NGÃ: Ta
- THA: Khác (người khác)
- BÁ: Bác
- DI: Dì
- DIÊN: Chì
- TÍCH: Thiếc
- DỊCH: Việc
- CÔNG: Công
- HÀN: Lông
- DỰC: Cánh
- THÁNH: Thánh
- HIỀN: Hiền
- TIÊN: Tiên
- PHẬT: Bụt
- LẠO: Lụt
- TRIỀU: Triều
- DIÊN: Diều
- PHƯỢNG: Phượng
- TRƯỢNG: Trượng
- TẦM: Tầm
- BÀN: Mâm
- TRẢN: Chén
- KIỂN: Kén
- TY: Tơ
- MAI: Mơ
- LÝ: Mận
- TỬ: Cặn
- THANH: Trong
- HUNG: Lòng
- ỨC: Ngực
- MẶC: Mực
- CHU: Son
- KIỀU: Non
- THỤC: Chín
- THẬN: Ghín
- LIÊM: Ngay
- TỬ: Tây
- MỘ: Mến
- CHÍ: Đến
- HỒI: Về
- HƯƠNG: Quê
- THỊ: Chợ
- PHỤ: Vợ
- PHU: Chồng
- NỘI: Trong
- TRUNG: Giữa
- MÔN: Cửa
- ỐC: Nhà
- ANH: Hoa
- ĐẾ: Rễ
- PHỈ: Hẹ
- THÔNG: Hành
- THƯƠNG: Xanh
- BẠCH: Trắng
- KHỔ: Đắng
- TOAN: Chua
- SÔ: Ngựa
- GIÁ: xe giá
- THẠCH: Đá
- KIM: Vàng
- CÙ: Đường
- HẠNG: Ngõ
- ĐẠC: Mõ
- CHUNG: Chuông
- PHƯƠNG: Vuông
- TRỰC: Thẳng
- TRÁC: Đẳng
- HÀM: Hòm
- KHUY: Dòm
- SÁT: xét
- MIỆN: Lét
- CHIÊM: Xem
- MUỘI: Em
- TỶ : Chị
- THỊ: Thị
- ĐÀO:Điều
- CÂN:Rìu
- PHỦ: Búa
- CỐC: Lúa
- MA: Vừng
- KHƯƠNG: Gừng
- GIỚI:Cải
- THỊ: Phải
- PHI: Chăng
- DUẪN: Măng
- NHA: Mống
- CỔ: Trống
- CHINH: Chiêng
- KHUYNH: Nghiêng
- NGƯỠNG: Ngửa
- BÁN: Nửa
- SONG: Đôi
- NHĨ: Mồi
- LUÂN: Chỉ
- HẦU: Khỉ
- HỔ: Hùm
- ĐÀM: Chum
- CỮU: Cối
- MỘ :Tối
- TRIÊU: Mai
- TRƯỜNG: Dài
- ĐOẢN: Ngắn
- XÀ: Rắn
- TƯỢNG: Voi
- VỊ :Ngôi
- GIAI: Thứ
- CỨ: Cứ
- Y:y
- QUỲ: Rau Quỳ
- HOẮC: Rau Hoắc
- CÁC: Gác
- LÂU: Lầu
- THỊ: Chầu
- CA: Hát
- PHIẾN: Quạt
- DU: Dù
- THU: Mùa Thu
- HẠ: Mùa Hạ
- BĂNG: Giá
- VŨ: Mưa
- TIỄN: Đưa
- NGHINH:Rước
- THUỶ: Nước
- NÊ: Bùn
- KHỐI: Hòn
- ĐÔI: Đống
- KHIẾM: Súng
- LIÊN :Sen
- DANH: Tên
- TÁNH: Họ
- CẤU: Đó
- THUYỀN: Nơm
- PHẠN: Cơm
- TƯƠNG: Nước tương
- XÍCH: Thước
- PHÂN: Phân
- CÂN: Cân
- ĐẨU: Đấu
- HÙNG: Gấu
- BÁO: Beo
- ...

Tham khảo:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thu.
Hai câu thơ trên thuộc bài thơ " Nam Quốc Sơn Hà " của Lí Thường Kiệt. Trong câu thơ đầu tiên, tác giả bằng lời văn đanh thép và hào hùng đã nhấn mạnh một điều rằng đất Năm do chính vua Nam làm chủ. Và chính vì vua Nam làm chủ nên các nước khác không được coi đất Nam là một đất nước không có vua và có ý định xâm lược. Câu thơ đầu tiên đó cũng chính là lời tuyên bố, khẳng định lãnh thổ của đất nước ta. Trong câu thứ hai , tác giả đã lại một lần nữa khẳng định " đất Nam do vua Nam làm chủ " bằng cách nói đây là một điều, một quy luật tự nhiên được định sẵn ở " sách trời ". Như vậy, qua hai câu thơ đầu của bài thơ " Nam Quốc Sơn Hà " đã nêu ra và khẳng định nền độc lập, tự do và quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ của đất nước ta bằng giọng thơ đanh thép, hào hùng khiến lũ giặc phải sợ hãi.

Sự ra đời của Lịch pháp và Thiên văn học
Những tri thức Thiên văn học và Lịch pháp học ra đời vào loại sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông. Nó gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Để cày cấy đúng thời vụ, những người nông dân luôn phải “trông trời, trông đất”. Dần dần, họ biết đến sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Đó là những tri thức đầu tiên về thiên văn. Từ tri thức đó, người phương Đông sáng tạo ra lịch. Vì vậy, lịch của họ là nông lịch, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.
Đây cũng là cơ sở để người ta tính chu kì thời gian và mùa. Thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày. Năm lại có mùa ; mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi. Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.
Thiên văn học sơ khai và lịch đã ra đời như thế.
b) Chữ viết
Sự phát triển của đời sống làm cho quan hệ của xã hội loài người trở nên phong phú và đa dạng ; người ta cần ghi chép và lưu giữ những gì đã diễn ra. Chữ viết ra đời bắt nguồn từ nhu cầu đó. Chữ viết là một phát minh lớn của loài người.
Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà.
Lúc đầu, chữ viết chỉ là hình vẽ những gì mà họ muốn nói, sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Chữ viết theo cách đó gọi là chữ tượng hình. Người Trung Hoa xưa vẽ để chỉ ruộng, vẽ để chỉ cây và vẽ để chỉ rừng.
Người Ai Cập xưa vẽ để chỉ nhà, vẽ chỉ móm, vẽ để chỉ Mặt Trời...
Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.
Nguyên liệu được dùng để viết của người Ai Cập là giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.
c) Toán học
Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng, nên Toán học xuất hiện rất sớm ở phương Đông.
Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản. Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi (71) bằng 3,16 ; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v... Còn người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu. Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên.
Những hiểu biết về toán học của người xưa đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.
d) Kiến trúc
Trong nền văn minh cổ đại phương Đông, nghệ thuật kiến trúc phát triển rất phong phú.
Nhiều di tích kiến trúc cách đây hàng nghìn năm vẫn còn lưu lại như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà ...
Những công trình cổ xưa này là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người.
Tham khảo!
Hai thành ngữ co yếu tố chỉ động vật:
Ếch ngồi đáy giếng: ví người sống ở môi trường nhỏ hẹp, ít tiếp xúc với bên ngoài nên ít hiểu biết, tầm nhìn hạn hẹp.Ăn ốc nói mò: nói không có ăn cứ, chứng cứ gì cả.Hai thành ngữ có yếu tố chỉ thực vật:
Liễu yếu đào tơ: chỉ những người con gái trẻ, mảnh mai, yếu ớt.Cây cao bóng cả: Người có thế lực, uy tín lớn, có khả năng che chở, giúp đỡ người khácEm tham khảo:
Ôi! Quê hương! Tiếng gọi thiêng liêng của con người bé nhỏ về nơi non xanh nước biếc, về nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tôi yêu quê tôi. Yêu những cánh diều vi vu trên cánh đồng trải dài như một tấm thảm xanh thẳm. Yêu những buồi chiều đi bắt dễ, cào cào trên những đồng cỏ xanh. Những buổi tối lũ trẻ chúng tôi thường ngồi tụ tập dưới mái hiên nhà ngắm ông trăng cùng các ông sao trên cao, nghe nội kể lại những ngày kháng chiến. Nếu mai này khi tôi đã thành công tôi vẫn sẽ mai nhớ đến nó, bởi từ lâu, nó đã là những kỉ niệm đẹp đẽ chiếm trọng trái tim tôi.
Thành ngữ:
- non xanh nước biếc
-chôn rau cắt rốn
Giải nghĩa:
Non xanh nước biếc: Cụm từ "non xanh nước biếc" có nghĩa là sông núi và dòng nước có màu xanh biếc nhìn tràn đầy sức sống. Nó được dùng để miêu tả sự sống của một quốc gia
Chôn rau cắt rốn: chỉ nơi sinh ra (ai đó) với tình cảm tha thiết.