(1 điểm) Trình bày đặc điểm tự nhiên của Lào.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


- Phân bố mưa:
+ Rìa phía Bắc và Đông Bắc có lượng mưa tương đối lớn, từ 1000 – 1500mm là nơi hoạt động của gió mùa và dòng biển nóng trên biển Timo và dòng nóng Đông Ôxtrâylia, khi vào sâu trong lục địa, lượng mưa giảm dần.
+ Duyên hải phía Đông có lượng mưa trung bình từ 500 – 1000mm do gió Tín Phong thổi qua dòng biển nóng Đông Ôxtrâylia mang theo nhiều ẩm. Khi vào đến lục địa, gặp dãy Đông Ôxtrâylia và gây mưa ở sườn Đông, khi sang đến sườn Tây thì giảm ẩm và trở nên khô nóng, ít gây mưa.
+ Gió Tây ôn đới thổi ở rìa phía nam lục địa theo hướng Tây Bắc, vốn có tính chất ẩm, nhưng khi thổi qua dòng biển lạnh Tây Ôxtrâylia thì ngưng tụ và gây mưa ngay ngoài khơi, khi vào đến lục địa thì bị giảm ẩm và ít gây mưa.
+ Sâu trong lục địa có lượng mưa thấp, dưới 500mm, do nằm trong khu vực áp cao chí tuyến, ít mưa và chịu ảnh hưởng của gió phơn.
- Phân bố hoang mạc: Hoang mạc chiếm toàn bộ diện tích nội địa của lục địa Ôxtrâylia và lan ra sát bờ biển phía Tây. Vì:
+ Lục địa Ôxtrâylia nằm trong áp cao chí tuyến nên nóng và ít mưa. Càng vào sâu trong lục địa, lượng mưa càng giảm, khí hậu khô hạn.
+ Dòng lạnh Tây Ôxtrâylia chảy sát ven bờ phía Tây.
mik làm đc có mỗi từng này thôi còn lại bạn có thể tự them 1 số ý nữa cũng đc
- Phân bố mưa:
+ Rìa phía Bắc và Đông Bắc có lượng mưa tương đối lớn, từ 1000 – 1500mm là nơi hoạt động của gió mùa và dòng biển nóng trên biển Timo và dòng nóng Đông Ôxtrâylia, khi vào sâu trong lục địa, lượng mưa giảm dần.
+ Duyên hải phía Đông có lượng mưa trung bình từ 500 – 1000mm do gió Tín Phong thổi qua dòng biển nóng Đông Ôxtrâylia mang theo nhiều ẩm. Khi vào đến lục địa, gặp dãy Đông Ôxtrâylia và gây mưa ở sườn Đông, khi sang đến sườn Tây thì giảm ẩm và trở nên khô nóng, ít gây mưa.
+ Gió Tây ôn đới thổi ở rìa phía nam lục địa theo hướng Tây Bắc, vốn có tính chất ẩm, nhưng khi thổi qua dòng biển lạnh Tây Ôxtrâylia thì ngưng tụ và gây mưa ngay ngoài khơi, khi vào đến lục địa thì bị giảm ẩm và ít gây mưa.
+ Sâu trong lục địa có lượng mưa thấp, dưới 500mm, do nằm trong khu vực áp cao chí tuyến, ít mưa và chịu ảnh hưởng của gió phơn.
- Phân bố hoang mạc: Hoang mạc chiếm toàn bộ diện tích nội địa của lục địa Ôxtrâylia và lan ra sát bờ biển phía Tây. Vì:
+ Lục địa Ôxtrâylia nằm trong áp cao chí tuyến nên nóng và ít mưa. Càng vào sâu trong lục địa, lượng mưa càng giảm, khí hậu khô hạn.
+ Dòng lạnh Tây Ôxtrâylia chảy sát ven bờ phía Tây.

− Đặc điểm tự nhiên:
+ Khí hậu: Lâm Đồng có khí hậu ôn đới, mát mẻ quanh năm, thích hợp cho nhiều loại cây trồng như cà phê, chè, hoa, rau củ…
+ Địa hình: Tỉnh Lâm Đồng có địa hình đa dạng, từ đồi núi đến cao nguyên, đồng bằng và thung lũng.
+ Sông ngòi: Tỉnh Lâm Đồng có nhiều sông ngòi lớn như Đa Nhim, Sông Đà Lạt, Sông Cầu Đất, Sông Tia, Sông Đồng Nai…
+ Động vật: Lâm Đồng là nơi sinh sống của nhiều loài động vật quý hiếm như hươu sao, gấu trúc, khỉ đột, sóc bay, chim cút đỏ…
+ Thực vật: Với đa dạng địa hình và khí hậu, Lâm Đồng có nhiều loại cây trồng, thực vật quý hiếm như hoa hồng, hoa cẩm tú cầu, hoa dã quỳ, cà phê, chè, rau củ…
− Tiềm năng và thế mạnh:
+ Lâm Đồng là trung tâm sản xuất cà phê lớn nhất Việt Nam
+ Tỉnh Lâm Đồng cũng là trung tâm sản xuất hoa
+ Ngoài ra, Lâm Đồng còn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch nghỉ dưỡng nhờ vào khí hậu mát mẻ, địa hình đa dạng và các danh lam thắng cảnh
+ Tỉnh Lâm Đồng cũng có tiềm năng phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và thủy sản nhờ vào địa hình đa dạng và khí hậu thuận lợi.

Địa hình : gồm 3 phần :
_ Núi già ở phía Đông
_ Miền đồng bằng ở giữa
_ Núi trẻ ở phía Tây
Khí hậu : gồm 4 kiểu khí hậu :
_ Khí hậu ôn đới lục địa
_ Khí hậu ôn đới hải dương
_ Khí hậu địa trung hải
_ Khí hậu hàn đới
Sông ngòi : Có mật độ dày đặc, lượng nước dồi dào. Lớn nhất là sông Đa-nuyp, sông Rai-nơ và sông Von-ga. Sông bị đóng băng vào mùa đông, nhất là khu vực các cửa sông
Thực vật : do ảnh hưởng của khí hậu nên từ Tây sang Đông có rừng lá rộng => rừng hỗn giao => rừng lá kim, phía Đông Nam có đồng cỏ, ven địa trung hải có cây bụi gai
1. Vị trí
diện tích 10 triệu km^2
châu âu là một châu lục thuộc lục địa á âu
dãy u-ran là ranh giới ngăn cách giữa châu âu vs châu á
nằm khoảng vĩ tuyến 36*B-71*B
3 mặt giáp vs biển và đại dương
bờ biển bị cắt xẻ mạnh tao thành nhiều bán đảo, vùng vịnh và biển ăn sâu vào đất liền

Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam[2][3].
Năm 2018, Lào Cai là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 55 về số dân, xếp thứ 45 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 16 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 705.600 người dân[4], GRDP đạt 43.634 tỉ Đồng (tương ứng với 1,8951 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 61,84 triệu đồng (tương ứng với 2.686 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,23%.[5]
Tên gọi Lào Cai hình thành từ cuối thế kỷ 19 khi người Pháp để ý đến Việt Nam và khám phá vùng núi Bắc Việt.
Tại vùng đất Lào Cai ở đầu cầu Cốc Lếu ngày nay, thì xưa kia có một khu chợ. Vùng biên giới trở nên nhộn nhịp khi vào những năm 1870 người Pháp như Jean Dupuis [note 1] đến "thám hiểm", mở đường buôn bán vũ khí và mua khoáng sản với Vân Nam, Trung Quốc. Người Pháp dựa vào người H'Mông để tiếp xúc, buôn bán, vận chuyển và tránh mặt giới chức Việt địa phương. Dần dần người ta mở mang thêm một phố chợ mới. Phố chợ cũ theo tiếng H'Mông là "Lao Cai", người Hoa gọi là ''Lão Nhai'' (老街), Dupuis viết là "Lao-kai". Phố chợ mới gọi là "Xin Cai", người Hoa gọi là Tân Nhai (新街, Phố Mới ngày nay).
Trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1879 thì Jean Dupuis ghi chỗ chợ này là "Lao-kai, residence du Chef des Pavillone noirs" (Lao-kai, dinh thủ lĩnh quân Cờ đen). Sau này người Pháp quen dùng nên thành tên của thủ phủ vùng [6]. Giáo sư Đào Duy Anhthì nói khi làm bản đồ, người Pháp viết "Lão Nhai" là "Lao Cai" và sau thành "Lao Kay". Tên "Lao Kay" đã được người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu hành chính.
Sau tháng 11 năm 1950, đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay.
Dân số[sửa | sửa mã nguồn]
Dân số năm 2007 của tỉnh Lào Cai là 593.600 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 314.520 người, chiếm khoảng 53% [1]. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số tỉnh là 613.075 người.
Dân số năm 2014 của tỉnh Lào Cai là 665.200 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 412.600 người, chiếm khoảng 62%
- Thành thị: 28%
- Nông thôn: 72
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 19.287 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 12.591 người, tiếp theo là Công giáo đạt 5.946 người, Phật giáo có 733 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáocó 12 người, đạo Cao Đài có ba người, Minh Lý đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi tôn giáo chỉ có một người.[7] Hiện tại (2019), Lào Cai là một trong những địa phương có số dân theo đạo Công giáo thưa nhất miền Bắc Việt Nam với 9.967 tín hữu, chiếm 1,4% dân số toàn tỉnh và cũng là địa phương có số dân theo đạo Tin Lành đông đảo nhất miền Bắc Việt Nam với hơn 22.000 tín hữu.
Dân số tính đến ngày 1/4/2019 của toàn tỉnh đạt 730.420 người, bao gồm dân số thành thị 171.401 người, chiếm 23,5%; dân số nông thôn 559.019 người, chiếm 76,5%; dân số nam 371.306 người, chiếm 50,83%; dân số nữ 359.114 nghìn người, chiếm 49,17%.
Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50-60 triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gãy. Hơn vạn năm trước, con người đã có mặt tại địa bàn tại đây[cần dẫn nguồn]. Tổ tiên người bản địa Lào Cai nay hồi đó cư trú khá tập trung ở các dải đồi ven sông Hồng, sông Chảy, các cửa ngòi Mi, ngòi Nhù. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào Cai đã biết làm nông nghiệp [8]. Trong buổi đầu các bộ tộc xác định ranh giới chủ quyền, thời Hùng Vương thuộc Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. Thời Âu Lạc thì vùng phía đông và phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây Vu, còn một phần đất phía tây và phía bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của các bộ lạc nhỏ hơn không chịu thuần phục Lạc Việt.
Thời Bắc thuộc, ban đầu là địa phận thuộc huyện Tây Vu, quận Giao Chỉ. Sau này thuộc là quận Tân Hưng, đất Giao Châu (thời Tây Tấn), sau là đất châu Đan Đường, Chu Quý thuộc Giao Chỉ (thời Tùy), tiếp đổi Lâm Tây châu, Đức Hóa châu thuộc phủ An Nam (thời Đường, 679) [note 2].
Trong thời tự chủ phong kiến thuộc đạo Lâm Tây (林西), hay Đại Cồ Việt thời Đinh, Tiền Lê và Đại Việt thời Lý [note 2]); đất Đăng Châu (鐙州) thời Lý; tiếp là huyện Thủy Vĩ, trấn Quy Hóa, đạo Đà Giang (水尾縣光化鎭沱江道) thời nhà Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly làm phụ chính thái sư, sửa đổi chế độ hành chính, đã đổi các bộ phủ làm trấn và Đà Giang đổi thành trấn Thiên Hưng (天興). Trong đó, huyện Thủy Vĩ, huyện Văn Bàn (文盤) được thành lập trực thuộc châu Quan Hóa. Từ nay Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng đất Lào Cai xưa) đã chính thức trở thành tên đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến Đại Việt. Triều Lê đổi đổi lộ làm phủ và đổi trấn làm châu, khi đó lộ Quy Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn Bàn, huyện Thủy Vĩ trở thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc Phủ Quang Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa. Năm Hồng Đức thứ 31 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Đến đời Hồng Thuận Lê Tương Dực (1509-1516) đổi xứ Hưng Hóa thành trấn Hưng Hóa (興化鎭)[9].
Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa[10].
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 năm 1886), đế quốc Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày 7 tháng 1 năm 1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai [11] Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12 tháng 7 năm 1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Emmerich được cử làm Công sứ Pháp đầu tiên của Lào Cai thay tướng Louis Edouard Messager đang làm Tư lệnh Đạo quan binh số 4 Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1907 được xác định là ngày thành lập tỉnh Lào Cai[12].
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi. Sau khi Lào Cai vừa được thành lập, Toàn quyền Pháp ra Nghi định chia lại đơn vị hành chính Lào Cai: phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ Vỹ; phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm hai châu Thuỷ Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai[11].
Đến 1910, dưới thời của Công sứ Emmerich, một số tổng của Lào Cai (ở châu Thủy Vĩ) được trích ra cùng với một số tổng của Lai Châu lập ra châu Than Uyên do Công sứ Pháp Hernández của tỉnh Sơn La quản hạt.
Năm 1930, thời công sứ Pháp ở Lào Cai Henry Wintrebert, địa lý của Lào Cai cơ bản như sau
- Châu Bảo Thắng (bên tả ngạn) có 10 xã và khu tương đương với 34 thôn và 1 khu phố Lào Cai với 3 phố là Tân Bảo, Tân Tèo, Cốc Lếu.
- Châu Thuỷ Vỹ (bên hữu ngạn) có 4 xã là xã Nhạc Sơn (16 thôn bản), xã Xuân Giao (14 thôn bản), xã Cam Đường (37 thôn bản), xã Gia Phú (16 thôn bản). Tổng cộng là 83 thôn bản.
- Đại lý Mường Khương có 3 xã là xã Mường Khương (45 thôn bản), xã Pha Long (39 thôn bản), xã Bản Lầu (57 thôn bản).
- Đại lý Pa Kha (Bắc Hà) có 3 xã là xã Bắc Hà Đông, xã Bắc Hà Tây, xã Si Ma Cai; 149 thôn bản và 1 khu phố với 2 dãy phố.
- Đại lý Phong Thổ có 4 xã là xã Phong Thổ (có 80 thôn bản), xã Giào San (28 thôn bản), xã Tam Đường (có 58 thôn bản), xã Bình Lư (có 28 thôn bản). Tổng cộng có 194 thôn bản.
- Đại lý Bát Xát có 3 xã:Bát Xát (8 thôn bản), Trịnh Tường (20 thôn bản), Mường Hum (4 thôn bản).
- Khu hành chính Sa Pa có 37 thôn bản[13].

refer:
Địa hình : gồm 3 phần :
_ Núi già ở phía Đông
_ Miền đồng bằng ở giữa
_ Núi trẻ ở phía Tây
Khí hậu : gồm 4 kiểu khí hậu :
_ Khí hậu ôn đới lục địa
_ Khí hậu ôn đới hải dương
_ Khí hậu địa trung hải
_ Khí hậu hàn đới
Sông ngòi : Có mật độ dày đặc, lượng nước dồi dào. Lớn nhất là sông Đa-nuyp, sông Rai-nơ và sông Von-ga. Sông bị đóng băng vào mùa đông, nhất là khu vực các cửa sông
Thực vật : do ảnh hưởng của khí hậu nên từ Tây sang Đông có rừng lá rộng => rừng hỗn giao => rừng lá kim, phía Đông Nam có đồng cỏ, ven địa trung hải có cây bụi gai
* Vị trí:
- Thuộc lục địa Á - Âu.
- Diện tích: 10 triệu km2.
- 3 mặt giáp biển và đại dương:
+ Bắc giáp Bắc Băng Dương.
+ Nam giáp Địa TRung Hải.
+ Tây giáp Đại Tây Dương.
- Nằm giữa 36oB và 71oB.
- Đường bờ biển dài, bị cắt xẻ manh.
* Địa hình:
+ Đồng bằng.
+ Núi già.
+ Núi trẻ.
* Khí hậu:
- Có 4 kiểu khí hậu:
+ Ôn đới hải dương.
+ Ôn đới lục địa.
+ Hàn đới.
+ Địa Trung Hải.
* Thực vật:
- Thảm thực vật thay đổi theo nhiệt độ và lượng mưa.
- Phổ biến:
+ Rừng cây lá rộng ( Ven biển Tây Âu ).
+ Rừng lá kim ( Sâu trong lục địa ).
+ Thảo nguyên ( Phía Đông Nam ).
+ Rừng lá cứng ( Ven Địa Trung Hải ).
* Sông ngòi: Hệ thống sông ngòi dày đặc, lượng nước dồi dào.

THAM KAHRO
Địa hình : gồm 3 phần :
_ Núi già ở phía Đông
_ Miền đồng bằng ở giữa
_ Núi trẻ ở phía Tây
Khí hậu : gồm 4 kiểu khí hậu :
_ Khí hậu ôn đới lục địa
_ Khí hậu ôn đới hải dương
_ Khí hậu địa trung hải
_ Khí hậu hàn đới
Sông ngòi : Có mật độ dày đặc, lượng nước dồi dào. Lớn nhất là sông Đa-nuyp, sông Rai-nơ và sông Von-ga. Sông bị đóng băng vào mùa đông, nhất là khu vực các cửa sông
Thực vật : do ảnh hưởng của khí hậu nên từ Tây sang Đông có rừng lá rộng => rừng hỗn giao => rừng lá kim, phía Đông Nam có đồng cỏ, ven địa trung hải có cây bụi gai

a. Vị trí
- Phần lớn diện tích nằm trong vùng ôn đới lạnh.
- Gồm bán đảo Ai-xlen và bán đảo Xcan-đi-na-vi (4 quốc gia: Ai-xlen, Thụy Điển, Phần Lan, Na-uy).
b. Địa hình
- Địa hình băng hà cổ phổ biến trên bán đảo Xcan-đi-na-vi.
- Bờ biển Na Uy nổi bật với dạng địa hình fio.
- Phần Lan có hàng vạn hồ, đầm.
- Ai-xơ-len có nhiều núi lửa và suối nước nóng.
- Bán đảo Xcan-đi-na-vi có địa hình núi và cao nguyên chiếm diện tích lớn.
c. Khí hậu
- Mùa đông có khí hậu lạnh giá, băng tuyết bao phủ dài ngày. Ai-xơ-len là nước được coi là xứ sở của băng tuyết.
- Mùa hè mát mẻ.
d. Tài nguyên
- Rừng, đồng cỏ -> khai thác gỗ, giấy...
- Tài nguyên biển.
- Thủy năng.
- Khoáng sản nghèo.

- Vị trí địa lý : Bao gồm lục địa Nam Cực và các đảo ven lục địa
- Địa hình : bề mặt quanh năm bị băng tuyết bao phủ tạo thành cao nguyên băng khổng lồ
- Khí hậu : Là nơi có khí hậu rất lạnh và vô cùng khắc nhiệt
- Thực vật : Không thể tồn tại nỗi vì quá khắc nhiệt
- Động vật : Chỉ có 1 số loài chỉu lạnh tốt : chim cánh cụt , hải cẩu , cá voi xanh , ...
- Khoáng sản : Là nơi tiềm năng lớn về dầu khí , than đá và sắt
Chúc bn hk tốt!
Biển Cửa Lò, một vùng đất nằm yên bình bên bờ biển miền Trung, luôn khiến tôi nhớ mãi mỗi khi nghĩ về vẻ đẹp mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên và sự sống nhộn nhịp của con người nơi đây. Cái cảm giác đứng trước biển, ngắm nhìn sóng vỗ rì rào, hít thở không khí trong lành, mang lại cho tôi những cảm xúc khó tả, một sự thư thái đến lạ kỳ. Cảnh biển Cửa Lò, với bãi cát vàng mịn màng trải dài, không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn bởi sự năng động, nhiệt huyết của con người đang gắn bó với vùng đất này.
Buổi sáng sớm, khi ánh nắng đầu ngày còn chưa vội vã chiếu rọi khắp mặt biển, biển Cửa Lò vẫn giữ nguyên vẻ tĩnh lặng, nhẹ nhàng. Sóng vỗ lăn tăn, vỗ về bờ cát trắng. Cái mùi mằn mặn của biển, cùng làn gió mát lạnh từ khơi xa, khiến không gian như được khoác lên mình một lớp áo mới. Dọc theo bờ biển, những con sóng bạc đầu cứ miệt mài vỗ vào chân sóng, như những lời thì thầm của biển cả với đất liền.
Thỉnh thoảng, vài người dân địa phương mang theo gánh hàng rong xuất hiện, bước đi trên bãi cát. Những chiếc thúng nhỏ đựng đầy hải sản tươi sống được họ mang ra từ các ghe thuyền, trong khi những người dân khác đang lúi húi thu dọn lưới cá sau một đêm dài ra khơi. Cảnh tượng ấy không chỉ thể hiện sự nhộn nhịp, mà còn là hình ảnh của một miền biển cần cù, hiền hòa, nơi cuộc sống của con người gắn liền với biển cả. Những người ngư dân có làn da rám nắng, nụ cười hiền hậu, họ sống cùng biển, làm việc vất vả nhưng luôn đón nhận với tất cả niềm tin và sự kiên cường.
Ở phía xa xa, vài chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhấp nhô trên mặt biển, người lái thuyền đang cần mẫn đánh bắt cá, khiến biển càng trở nên sôi động và đầy sức sống. Những con sóng vỗ mạnh hơn khi có những chiếc thuyền vượt qua, như muốn chào đón sự trở lại của những người bạn thân thuộc. Trên bãi biển, tiếng cười nói của du khách hòa cùng tiếng sóng biển tạo nên một khúc nhạc sống động, vui tươi.
Cửa Lò không chỉ có biển mà còn có một không gian của sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa biển cả bao la và những ngôi nhà nhỏ ẩn mình bên bờ cát. Bầu không khí trong lành, không gian rộng mở, cùng với sự cần mẫn, chịu khó của những người dân nơi đây, đã tạo nên một Cửa Lò vừa hùng vĩ vừa gần gũi, vừa là nơi lý tưởng để du khách tìm đến nghỉ ngơi, vừa là nơi mà người dân tận tụy làm nghề, sống hòa hợp với biển trời. Cảnh biển Cửa Lò, đẹp một cách tự nhiên và bình dị như thế.
Biển Cửa Lò, một vùng đất nằm yên bình bên bờ biển miền Trung, luôn khiến tôi nhớ mãi mỗi khi nghĩ về vẻ đẹp mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên và sự sống nhộn nhịp của con người nơi đây. Cái cảm giác đứng trước biển, ngắm nhìn sóng vỗ rì rào, hít thở không khí trong lành, mang lại cho tôi những cảm xúc khó tả, một sự thư thái đến lạ kỳ. Cảnh biển Cửa Lò, với bãi cát vàng mịn màng trải dài, không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn bởi sự năng động, nhiệt huyết của con người đang gắn bó với vùng đất này.Biển Cửa Lò, một vùng đất nằm yên bình bên bờ biển miền Trung, luôn khiến tôi nhớ mãi mỗi khi nghĩ về vẻ đẹp mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên và sự sống nhộn nhịp của con người nơi đây. Cái cảm giác đứng trước biển, ngắm nhìn sóng vỗ rì rào, hít thở không khí trong lành, mang lại cho tôi những cảm xúc khó tả, một sự thư thái đến lạ kỳ. Cảnh biển Cửa Lò, với bãi cát vàng mịn màng trải dài, không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn bởi sự năng động, nhiệt huyết của con người đang gắn bó với vùng đất này.Ở phía xa xa, vài chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhấp nhô trên mặt biển, người lái thuyền đang cần mẫn đánh bắt cá, khiến biển càng trở nên sôi động và đầy sức sống. Những con sóng vỗ mạnh hơn khi có những chiếc thuyền vượt qua, như muốn chào đón sự trở lại của những người bạn thân thuộc. Trên bãi biển, tiếng cười nói của du khách hòa cùng tiếng sóng biển tạo nên một khúc nhạc sống động, vui tươi.
Thỉnh thoảng, vài người dân địa phương mang theo gánh hàng rong xuất hiện, bước đi trên bãi cát. Những chiếc thúng nhỏ đựng đầy hải sản tươi sống được họ mang ra từ các ghe thuyền, trong khi những người dân khác đang lúi húi thu dọn lưới cá sau một đêm dài ra khơi. Cảnh tượng ấy không chỉ thể hiện sự nhộn nhịp, mà còn là hình ảnh của một miền biển cần cù, hiền hòa, nơi cuộc sống của con người gắn liền với biển cả. Những người ngư dân có làn da rám nắng, nụ cười hiền hậu, họ sống cùng biển, làm việc vất vả nhưng luôn đón nhận với tất cả niềm tin và sự kiên cường.
Cửa Lò không chỉ có biển mà còn có một không gian của sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa biển cả bao la và những ngôi nhà nhỏ ẩn mình bên bờ cát. Bầu không khí trong lành, không gian rộng mở, cùng với sự cần mẫn, chịu khó của những người dân nơi đây, đã tạo nên một Cửa Lò vừa hùng vĩ vừa gần gũi, vừa là nơi lý tưởng để du khách tìm đến nghỉ ngơi, vừa là nơi mà người dân tận tụy làm nghề, sống hòa hợp với biển trời. Cảnh biển Cửa Lò, đẹp một cách tự nhiên và bình dị như thế.