Trình bày những hiểu biết của em về lịch sử thăng long thời lý
09:15
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 3 :
-Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, hoặc bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long.
Đông trấn: "Bạch Mã tối linh từ" (đền Bạch Mã) (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9Tây Trấn: "Tây Trấn từ" (đền Voi Phục), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11Nam trấn: "Kim Liên từ" (đền Kim Liên), trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17Bắc trấn: "Trấn Vũ quán" (đền Quán Thánh), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10tham khảo !
1.
Có thể nói kiến trúc hoàng cung Thăng Long là một đỉnh cao của sự tiến bộ của kiến trúc đương thời lúc bấy giờ. Không chỉ có diện tích và quy mô to lớn, kiến trúc và trang trí nội thất bên trong còn rất nguy nga và tráng lệ thể hiện được sự quyền quý của quý tộc. Sách sử xưa có viết về cung điện Thăng Long được chạm trổ hết sức khéo léo, là công trình được thi công xây dựng tỉ mỉ từ trước đến nay chưa từng có. Bên trong cung điện đều sơn son, cột điện thì vẽ các hình long, hạc, tiên nữ qua đó bạn có thể hình dung vẻ đẹp quy nga và tráng lệ của cung Thăng Long lúc bấy giờ.
2.
Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370). Ông đỗ Hoàng giáp năm 1304. Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Khi còn bé, Nguyễn Trung Ngạn được dân trong vùng nể phục, gọi là “thần đồng”. Ông không chỉ là vị quan giỏi việc nội chính mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc.
-Trần Thì Kiến (1260 - 1330) người huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Khi làm quan triều Trần, ông là pháp quan liêm chính, giỏi lý số
3.là Đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh. Đây là 4 ngôi đền thiêng được dựng lên để thờ 4 vị thần trấn giữ những vị trí huyết mạch của mảnh đất Thăng Long.
Kim chỉ nam xuất hiện từ thời Chiến Quốc, dùng nam châm thiên nhiên mài giũa mà thành và được đặt trên một địa bàn hình vuông. Bốn xung quanh địa bàn có 24 hướng, tức là 8 căn Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý và 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Thềm có 4 duy: Càn, Khôn, Tốn, Cấn. Kim chỉ nam được gọi là La bàn từ thời đó. Lúc cân bằng mũi kim sẽ chỉ về phương Nam. Về sau cải tiến bằng cách từ hóa kim loại nhân tạo và không dùng nam châm thiên nhiên nữa. Ghi chép sử dụng kim chỉ nam trong hàng hải Trung Hoa sớm hơn phương Tây tới gần 100 năm. Kim chỉ nam của Trung Quốc bắt đầu truyền bá ra nước ngoài từ thời Tống, qua Ả Rập rồi tới châu Âu.
Tứ đại phát minh trong lịch sử TQ:la bàn,thuốc súng,giấy,nghề in
Kinh tế TBCN phát triển cùng các cuộc phát kiến địa lí trong các thế kỷ XV – XVI đã dẫn đến kỷ nguyên thương mại quốc tế sau đó. Các nước phương Tây đẩy mạnh việc giao lưu quốc tế vs các nước phương Đông. Hai trục giao thương buôn bán lớn ở biển Đông được hình thành đó là trục Bắc – Nam và Đông – Tây. Trong nước, về chính trị thời kỳ này đất nước ta chia cắt thành 2 Đàng. Trong các tk XVI – XVIII, nền kt hàng hóa phát triển, có những chuyển biến to lớn. Chính trong bối cảnh đó, hoạt động trong các đô thị đã ra đời,bên cạnh các đô thị cũ còn xuất hiện nhiều đô thị mới.
Đô thị lớn nhất và cũng là kinh đô của cả nước là Thăng Long – Kẻ Chợ. Đây là một đô thị ra đời từ tk 11. Trong các tk XVI – XVIII mạng lưới chợ ở đâyphát triển mạnh mẽ và là nơi đô hội, tụ tập đông người, có nhiều phố xá nên mật độ các chợ ở đây dày đặc hơn ở nơi khác. Có thể hình dug Thăng Long – Kẻ Chợ theo mô tả của giáo sĩ phương Tây: giáo sĩ Xanh Phanlo “kinh đô của nó, tôi xem có thể lớn bằng Pari và dân số cũng bằng”, giáo sĩ Marini “ Các nhà ở Kẻ Chợ đều 1 tầng…có 62 khu phố mà mỗi khu rộng bằng 1 thành phố nhỏ của nước Ý”.
ở Kẻ Chợ ngoài người Hoa còn có các thương nhân phương Tây đến buôn bán và xin lập thương điếm. Thăng Long – Kẻ Chợ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước, vì vậy TL vẫn chịu sự rang buộc của phần đô, còn phần thị ko phát triển bằng vì nhà nước nắm độc quyền ngoại thương.
Bên cạnh đó còn có Phố Hiến (Hưng Yên). Đây là 1 đô thị mới phát triển trong thời kì này. Tên gọi Phố Hiến thể hiện rõ nét yếu tố đô chi phối yếu tố thị. Đây là thủ phủ trấn Sơn Nam, Phố Hiến nằm ở phía tả s.Hồng, nơi đây có lỵ sở của Tuy Hiến sát sứ ty(cơ quan chính trị của nhà nước). Về sau vs sự phát triển của mình phố Hiến dần dần mag 1 diện mạo của 1 đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao goomd 1 bến cảng sông, 1 tập hợp chợ, khu phường phố, và 2 thương điếm Hà La, Anh. Phố Hiến từ nơi tụ cư, thị trấn phát triển thành 1 đô thị lớn vào tk 17 đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu các hoạt động buôn bán thông qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương do lợi thế là 1 bến sông, đầu mối của các tuyến gt vùng. Thời kì phồn thịnh nhất của phố Hiến là vào khoàng tk 17. Sau đó là quá trình suy thoái, diễn ra trong gần 2 tk để cuối cùng trở thành tỉnh lỵ Hưng Yên. Do dòng sông bị bồi lấp, cạn dần nên tàu thuyền vào khó khăn, mặt khác lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc bãi bỏ lệnh hải cấm, Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xk vàng bạc, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn. Thế kỷ XIX khi kinh đô chuyển vào Huế , phố Hiến lụi tàn dần.
Thanh Hà: nằm ở tả ngạ sông Hương do người TQ thành lập vào năm 1636 khi được phép của chúa Ng. Thanh Hà là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh khách phố” , vs hoạt động buôn bán sầm uất. Tuy nhiên do cồn nổi ở s.Hương tàu thuyền không cập bến được . Sau đó, Thanh Hà cũng lụi tàn dần.
Hội An; là thành phố cảng lớn nhất Đàng Trong, từ rất sớm Hội An đã là nơi đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc . Cảng thị Hội An là nơi tập trung hiều nhất hàng hóa ngoại quốc, các cửa hàng này hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Công ty Đông Ấn Anh nhận xét: “khu phố faifo này có 1 con đường nằm sát vs sông. Hai bên đường có khoảng 100 ngôi nhà xd san sát nhau. Boro viết “thành phố lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nhận nói nó có hai thị trấn, 1 của người TQ và 1 của người NB”. Cuối thế kỷ 18 vùng biển của Đại cạn dần, thuyền buôn ko vào được, Hội An tàn lụi dần.+
Bến Nghé: dưới sự cai quản của các chúa Ng năm 1698 chính thức được thahf lập. Bến Nghé trở thành nơi thu hút sự buôn bán rất lớn của khu vực phía Nam.
Tham khảo:
Hội An ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XVI, phát đạt trong thế kỷ XVII - XVIII, suy giảm dần từ thế kỷ XIX để rồi chỉ còn là một đô thị vang bóng một thời. Đứng về tuổi thọ, Hội An cũng chưa phải dài lâu nhất. Thương cảng Vân Đồn tồn tại suốt thời Lý, Trần, Lê trong khoảng 5 thế kỷ (XI - XV) Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh - Hà Nội là kinh thành và đô thị mang chiều dài lịch sử gần 10 thế kỷ.
Về quy mô của một đô thị, trong thời thịnh vượng của nó, Hội An cũng chưa phải to lớn nhất. Về mặt này, trong thế kỷ XVII - XVIII, Hội An càng phải đứng sau Thăng Long - Kẻ Chợ, Phú Xuân - Huế.
Tuy nhiên, về những phương diện khác, Hội An lại có vị trí, vai trò và mang những đặc điểm riêng của nó, tạo nên dáng vẻ và những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo của Hội An. Và điều đặc biệt quan trọng là cho đến nay, đô thị cổ Hội An còn để lại một tổng thể di tích phong phú, đa dạng và tương đối nguyên vẹn của các phố xá, bến cảng, các kiến trúc dân dụng và tôn giáo, tín ngưỡng dân gian. Trong khi đó, trải qua các biến thiên lịch sử và những điều kiện khắc nghiệt của nhiên nhiên, hầu hết các đô thị cổ khác đều bị hủy hoại hoặc cải tạo hoàn toàn, chỉ để lại trên mặt đất một ít di tích rời rạc, phần lớn là các thành lũy và cung điện, đền miếu, lăng mộ. Di tích đô thị cổ Hội An còn được bảo tồn đến nay là trường hợp duy nhất của Việt Nam và cũng là trường hợp hiếm có trên thế giới.
Chính vì những giá trị đó, năm 1985 Bộ Văn hóa thay mặt Nhà nước Việt Nam đã ra quyết định công nhận và khoanh vùng bảo vệ di tích phố cổ Hội An. Cùng năm đó, cuộc hội thảo khoa học lần thứ nhất về Hội An đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức. Với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước, cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc gia này đã làm sáng tỏ được một số vấn đề cho phép khẳng định quyết định đúng đắn của Chính phủ Việt Nam và đặt cơ sở khoa học bước đầu xây dựng một đề án bảo tồn khu di tích.
Tuy vậy, công việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu về Hội An còn cần phải tiếp tục để có thể đánh giá một cách sâu sắc hơn, chính xác hơn đặc điểm và giá trị của di tích đô thị cổ Hội An và đưa ra một đề án quy hoạch và bảo tồn, phát huy tác dụng một cách khoa học nhất và có hiệu quả nhất. Cuộc hội thảo quốc tế này của chúng ta nhằm mục tiêu đó.
2. Sau khi Ủy ban quốc gia Hội thảo quốc tế về Hội An được thành lập (4/1989), chúng tôi đã thực hiện một chương trình điều tra, khảo sát và nghiên cứu về Hội An nhằm chuẩn bị cho cuộc hội thảo quốc tế này, các đoàn khảo sát về địa lý – địa đạo, khảo cổ học, lịch sử, ngôn ngữ học, kiến trúc, nghệ thuật, bảo tồn học… đã lần lượt về Hội An triển khai các chương trình khảo sát chuyên ngành. Phạm vi điều tra, khảo sát không chỉ giới hạn trong khu phố cổ Hội An (Nội thị của Hội An ngày nay), mà được mở rộng cả về không gian và thời gian.
Về không gian, mở rộng ra cả vùng hạ lưu sông Thu Bồn trong phạm vi hoạt động của thương cảng Hội An xưa, từ dinh trấn Quảng Nam (Thanh Chiêm) cho đến Cù Lao Chàm, và trong chừng mực nào đó ngược về phía tây cho đến Trà Kiệu - Mỹ Sơn của Champa xưa.
Về thời gian, từ những di tích Hội An hiện còn, chúng tôi ngược về quá khứ xa xưa thời tiền sử, sơ sử, thời văn hóa Chàm - tạm gọi là thời tiền Hội An và chủ yếu đi sâu vào quá trình hình thành, phát triển và suy giảm của thương cảng Hội An.
Kết quả trước hết của các đợt điều tra khảo sát điền dã đó là đã thu thập thêm được nhiều tư liệu mới, làm giàu thêm cơ sở tư liệu về Hội An. Đó là những hiện vật khảo cổ học gồm đồ đá, đồ gốm sứ, tiền đồng cổ từ văn hóa Sa Huỳnh muộn cho đến những thời kỳ lịch sử gần đây, những bản dập văn bia, những gia phả, tộc phả, những bản vẽ kiến trúc cổ tồn tại cho đến nay, những hồ sơ tư liệu về các nghề thủ công cổ truyền, về tiếng nói địa phương, về địa danh, về các phong tục tập quán và lễ hội văn hóa dân gian. Sưu tập gốm sứ ở Hội An rất phong phú gồm gốm Sa Huỳnh - Champa, gốm sứ Đại Việt - Đại Nam của các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn, gốm sứ Trung Quốc qua nhiều triều đại và có thể cả gốm sứ nước khác, đang chờ đợi sự nghiên cứu và giám định của các chuyên gia. Các bản dập văn bia gồm bia chùa, đình, miếu, mộ, nhà thờ tộc, hội quán, cầu lên đến gần 100. Các di tích kiến trúc cổ còn được lưu giữ, theo điều tra và thống kê sơ bộ, cũng lên đến 226 đơn vị với nhiều loại hình khác nhau và đã lập được 154 hồ sơ bản vẽ. Do hạn chế về thời gian và nhất là do hạn chế về kinh phí, chúng tôi chưc hoàn tất được chương trình điều tra khảo sát về mọi mặt, đặc biệt là chưa tiến hành được những khai quật khảo cổ học trên diện lớn ở nhiều địa điểm cần thiết.
Trên cơ sở tập hợp những tư liệu mới đó kết hợp với những kết quả nghiên cứu trước đây, tháng 10/1989, chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo liên ngành để chuẩn bị các báo cáo khoa học cho cuộc hội thảo quốc tế này. 26 báo cáo khoa học thuộc nhiều ngành chuyên môn khác nhau đã được hoàn thành và sẽ được trình bày trong cuộc hội thảo của chúng ta, với sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam ở Hà Nội, Quảng Nam - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Huế.
Chúng tôi biết rằng tư liệu liên quan đến Hội An còn được lưu giữ ở nhiều nước trước đây vốn có quan hệ buôn bán với thương cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc ở phương Đông, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Rôma ở phương Tây. Một phần nguồn tư liệu này đã được khai thác và công bố trong các công trình nghiên cứu của N. Peri, W.J.M. Buch, Chen Ching Ho, P. Manguin, O gura Sadao và nhiều bài đăng trên Bulletin des Amis du vieux Hue, Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême - Orient. Nguồn tư liệu này đang được tiếp tục khai thác nguồn tư liệu cho Hội An và rộng ra nữa cho cả lịch sử Việt Nam.
38 báo cáo khoa học (26 của các nhà khoa học Việt Nam và 12 của các nhà khoa học nước ngoài) trình bày trong cuộc hội thảo quốc tế này, bao quát nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đề cập đến nhiều vấn đề của Hội An trong lịch sử và hiện trạng. Các báo cáo cũng gợi mở ra nhiều vấn đề tranh luận rất hứng thú và đặt ra những giả thuyết, những hướng tìm tòi mới có ý nghĩa và triển vọng.
Sau đây, dựa trên các báo cáo khoa học gửi đến hội thảo, tôi xin phép được nêu lên và lưu ý các bạn đồng nghiệp trong và ngoài nước một số vấn đề nhằm định hướng cho cuộc hội thảo khoa học trên tinh thần rất cởi mở, tự do và thẳng thắn của chúng ta.
3. Nói đến thương cảng Hội An, các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ dựa vào những phố cổ hiện còn và trên địa hình sông - biển, các bãi bồi - ao đầm hiện tại. Nhưng những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XIX và nhiều tư liệu địa lý học lịch sử cho thấy chỉ trong vòng ba, bốn thế kỷ trở lại đây, địa hình vùng hạ lưu sông Thu Bồn đã có nhiều thay đổi. Ngày nay, những biến đổi của vùng cửa sông và các doi cát ven sông còn tiếp diễn và có thể dễ dàng quan sát trong từng thời gian khoảng chục năm. Vì vậy việc nghiên cứu, khảo sát về mặt địa lý, khí tượng, thủy văn để xác định quá trình hình thành và biến đổi địa hình của vùng hạ lưu sông Thu Bồn, nhất là trong khoảng 2000 năm trở lại đây, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử Hội An cũng như lý giải cấu trúc, sự ra đời và sa sút của thương cảng, mối quan hệ giữa Hội An với Đà Nẵng và con đường hàng hải quốc tế đương thời.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát của một số nhà chuyên môn cho biết vào khoảng đầu công nguyên, lúc biển tiến đạt mức cực đại thì vùng cửa sông Thu Bồn là một vùng biển cửa sông loe như hình phễu. Dấu vết rõ rệt của vùng biển cổ đó là một vùng đầm lầy Trà Quế (Cẩm Hà). Sau đó, biển rút dần và các địa hình có nguồn gốc khác nhau được tạo thành. Những địa hình cao con người có thể sinh sống được lúc bất giờ là ven bờ vùng biển, là các thềm tích tụ biển rải rác và thành một dải dọc theo chân bờ xói lở. Thềm tích tụ biển tương đối cổ và cao là doi cát từ Hội An đến Cồn Tàu. Hai bên bờ Bắc và Nam cửa Thu Bồn, hai dải tích tụ cát nhô lên khỏi mặt nước, biến vùng nước phía trong thành dầm phá. Các dạng đầm phá bị lấp dần, để lại dưới dạng dòng sông Cổ Cò hay các bầu ở Trung Phường. Phù sa và sóng biển ở cửa sông tạo thành những cồn cát, tách sông Thu Bồn đổ ra biển bằng hai cửa mà tư liệu lịch sử đã có thời gọi là Cửa Đại và cửa Tiểu. Quá trình di chuyển dọc bờ của bùn cát làm chi cửa phía bắc bị lấp dần - có thể vào khoảng thế kỷ XVIII - và ép dòng nước sông Thu Bồn chạy về phía Nam. Cũng từ đó, quá trình tích tụ mạnh mẽ bồi lấp dần các đầm phá và làm cho các tuyến sông bị thay đổi và bị lấp dần, gây khó khăn cho sự ra vào và neo đậu các tàu thuyền lớn.
Trên những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XVIII, Hội An hay Faifo nằm trên bờ bắc sông Thu Bồn (hay sông Hội An) thông với biển cả bằng cửa Đại Chiêm (lúc đó còn ở phía Bắc Cửa Đại ngày nay) và một dòng sông nối với cửa Hàn của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng như một hòn đảo. Dấu vết của dòng sông nối Hội An với cửa Hàn có thể xác định là sông Cổ Cò - Để Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này, gần đây đã tìm thấy những lô tàu, mỏ neo chôn vùi trong lòng đất và những địa danh có ý nghĩa như Vụng Tàu, Cồn Tàu, Bến Tàu…
Phải chăng trên cơ sở những tư liệu đó, chúng ta có thể phác họa lại địa hình và sông nước Hội An trong thời hình thành và phồn vinh của thương cảng nổi tiếng này. Những biến đổi của địa hình sau đó cũng là một trong những nhân tố trọng yếu làm sa sút vai trò và hoạt động của thương cảng Hội An. Cũng trên cơ sở địa hình và những biến đổi của nó trong lịch sử, chúng ta có thể nghiên cứu theo quan điểm lịch đại và đồng đại đặc điểm môi trường và sinh thái vùng sông - biển, cồn cát - ao đầm của Hội An và hạ lưu sông Thu Bồn.
4. Trong hội thảo quốc tế này, một số báo cáo đề cập đến thời kỳ tiền Hội An, thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa. Đó là một hướng nghiên cứu đã được nêu lên trong hội thảo năm 1985 và được tiếp tục trong hội thảo này với một số tư liệu và nhận thức mới.
Những cuộc thám sát khảo cổ học ở Hậu Xá, Thanh Chiếm, An Bang (xã Cẩm Hà) để phát hiện được những di tích mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh muộn. Trong những di tích này đã tìm thấy đồ gốm, kh...
Tham khảo
Em hãy trình bày những hiểu biết của mình về nhân vật lịch sử Quang Trung – Nguyễn Huệ.
=> Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.
Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.
Nguyễn Huệ còn là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm
câu 2 : Liệt kê những công lao của ông đối với đất nước?
- Lật đổ các chính quyền phong kiến phản động Nguyễn- Trịnh - Lê.
- Xoá bỏ sự chia cắt đất nước, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
- Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ được nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.
Em tham khảo:
Nguyễn Huệ (1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, bên cạnh Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông không những là một trong những vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc mà còn là một nhà cai trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc; đồng thời còn là vị vua có tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt
- Thăng Long có thể so với nhiều thành thị ở Á châu, nhưng lại đông dân hơn.
- Những ngày phiên chợ, dân ở các làng lân cận kĩu kịt gánh hàng hoá đến đông không thể tưởng tượng được.
- Các con đường rộng bây giờ đều trở thành chật chội.
- Phường Hàng Ngang và phường Hàng Đào là nơi bán áo, bán các thứ tơ, lụa, vóc, nhiễu,... Hàng Buồm cũng là một phố buôn bán rất huyên náo.
Khi nhà Đinh, nhà Tiền Lê làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình (củng cố độc lập dân tộc, khôi phục thống nhất quốc gia) thì Hoa Lư cũng vừa xong sứ mệnh lịch sử của một Thủ đô thời kỳ đầu khi đất nước giành lại độc lập. Độc lập tổ quốc đã được thử thách và vững vàng hơn. Những tiền đề cần thiết cho bước nhảy vọt về kinh tế, phát triển huy hoàng về văn hoá đã được chuẩn bị qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc. Với nhãn quan chính trị xuất sắc của mình, nhà vua đã nhận ra vị thế đắc địa của thành Đại La. Mùa thu tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua đầu triều Lý quyết định dời đô. Mùa nước rẫy, thuyền ngự với chiến thuyền và văn võ bá quan hộ tống từ Hoa Lư ngược dòng cập bến Đại La. Tại vùng đất mới, nhà vua đổi tên là thành Thăng Long. Kinh thành mới đại thể được giới hạn bằng 3 con sông. Phía Đông là sông Hồng, phía Bắc và phía Tây là sông Tô, phía Nam là sông Kim Ngưu và chia làm hai phần: Hoàng thành và kinh thành. Hoàng thành nằm trong lòng Kinh thành, vị trí gần Hồ Tây, nơi có các cung điện hoàng gia, đồng thời là nơi thiết triều. Trong Hoàng thành còn ngăn ra một khu vực nữa gọi là Cấm thành. Đây là nơi ở của hoàng gia, gọi là Long thành. Những cung điện chính còn ghi chép trong sử sách như: Điện Kiền Nguyên là điện chính, nơi vua làm việc, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân; bên phái mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn; chính Bắc dựng điện Cao Minh, đằng sau dựng điện Long An và Long Thuỵ để vua nghỉ ngơi, tiếp sau là cung Thuý Hoa và các cung khác để các phi tần ở,v.v... Gốm thời LÝ Năm 1029 vua Lý Thái Tôn cho xây dựng lại Cấm thành. Trên nền cũ của điện Kiền Nguyên dựng điện Thiên An làm chính, hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và Diên Phúc. Đằng trước Thiên An là sân rồng, hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông, xung quanh bốn bề đều dựng hành lang và dải vũ. Chếch về phía Đông là điện Văn Minh và điện Quảng vũ. Phía trước sân rồng là điện Phụng Tiên, trên điện có lầu Chính Dương nơi đặt đồng hồ và báo canh. Đằng sau điện Thiên An là điện Thiên Khánh hình bát giác, nối liền Thiên Khánh với điện Trường Xuân phía sau là các cầu Phượng Hoàng, trên điện Trường Xuân có gác Long Đồ. Năm 1203 lại thêm đợt xây dựng mới. Vua Lý Cao Tôn cho dựng thêm cung điện ở phía Tây tẩm điện: Chính giữa đặt điện Thiên Thuỵ, bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Thiềm Quang, đằng trước xây điện Chính Nghi, phía trên dựng điện Kính Thiên. Chính giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Vệt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau mở điện Thắng Thọ, trên có dựng gác. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh đều dựng nhà hành lang. Phía trái gác Nguyệt Bảo dựng toà Lương Thạch, phía Tây gác xây Dục Đường (nhà tắm). Ngoài ra còn rất nhiều công trình khác như gác Phú Quốc, thềm Phượng Tiêu, cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư, đình Ngoạn Y. Tất cả các công trình này đều có trồng hoa thơm cỏ lạ, “cách chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng có vậy”(việt sử lược .t .14). Bao bọc các cung điện là một bức tường thành bảo vệ gọi là Long Thành với 10 vệ cấm quân ngày đêm canh gác. Tượng Phật Ngoài các cung điện, nhà Lý còn xây dựng khá nhiều các đền miếu, chùa tháp, hồ, vườn cảnh để phục vụ cho nhu cầu du ngoạn và tâm linh của hoàng tộc như chùa Vạn Tuế, chùa Hưng Thiên Ngự, chùa Chân Giáo, đền Quán Thánh và hàng loạt lầu các, đài tạ rất đẹp như: đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói vàng, tầng dưới lợp ngói bạc; hồ Kim Minh vạn tuế có cầu Vũ Phượng đi vào núi đá giữa hồ; hồ Thuỵ Thanh, ứng Minh(đào 1051); hồ Phượng Liên (đào 1098), cạnh hồ dựng điện Sùng Uyên, điện Huy Dương, đình Lai Phượng, điện ánh Thiềm, đình át Vân cùng lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa. Nhiều vườn ngự cũng được mở trongkhu hoàng thành: vườn Quỳnh Lâm, Thắng cảnh, Xuân Quang, Thượng Lâm. Trong các vườn này còn đào hồ nuôi thả hải sản như đồi mồi cá biển...Tất cả các công trình kiến trúc trong hoàng thành đều xây dựng quy mô tráng lệ, từ lầu son gác tía đến các công trình văn hoá, tôn giáo hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của chốn Cửu trùng. Rồng thời Lý Khu thứ hai là khu dân sự, quan lại và binh lính ở bao bọc lấy hoàng thành, còn gọi là kinh thành. Khu này chia thành các phường nông nghiệp và thủ công nghiệp. Cả hai khu (Hoàng thành và kinh thành) được bao bọc bằng đê của ba con sông nói trên. Đời sống kinh tế tại Thăng Long thời gian này đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí là một miền dân khang vật thịnh, nên khi trở thành Kinh Sư dân số Thăng Long ngày càng đông, hoạt động kinh tế của kinh thành ngày càng sầm uất, phồn thịnh hơn trước. Chỉ trong khoảng hơn một trăm năm sau khi trở thành kinh đô, tại Thăng Long, nhà Lý trong giai đoạn thịnh đạt đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trên quy mô lớn, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử Việt Nam. Tứ đại khí: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh chính là được thiết kế từ thời kỳ này. Nhà Lý đã trải qua 9 đời ở kinh thành Thăng Long, đổi quốc hiệu là Đại Việt, tồn tại 215 năm
Từ thời Lý, cấu trúc “tam trung thành quách” đã định hình rõ ràng. Vòng thành trong cùng bao bọc nơi ở của vua, gọi là Cấm thành, vòng thành giữa bao bọc nơi nhà vua và triều đình làm việc, bao trọn cả Cấm thành, là Hoàng thành, hay còn gọi là Long thành. Vòng thành ngoài cùng bao bọc nơi ở của quan lại, thái tử, hoàng tử, anh em họ hàng nhà vua và dân chúng, gọi là Đại La thành. Vùng đất nằm giữa Hoàng thành và Đại La thành gọi là Kinh thành.
Với chủ trương không bao bọc thái tử và hoàng tử trong bốn bức tường Hoàng thành, các vua triều Lý luôn xây dựng cung điện ở ngoài thành cho các con trai của mình. Ngoài Hoàng thành là Kinh thành với muôn mặt đời sống thường nhật của người dân diễn ra mỗi ngày. Đó là cách tốt nhất để các thái tử và hoàng tử hiểu rõ việc đời, việc người, hiểu rõ về xã hội, dân chúng mà họ sẽ trị vì sau này.
Cung điện của Thái tử được gọi là cung Long Đức. Đây là cung điện cố định nhất trong số các cung điện dành cho con trai của nhà vua. Khi một hoàng tử được lập làm thái tử thì sẽ được dọn về ở tại cung này. Khi thái tử lên ngôi vua, cung này lại được dành cho thái tử thế hệ kế tiếp. Vì thế, chủ nhân của cung Long Đức có tính luân phiên.
Bên cạnh cung Long Đức, các phủ điện của các hoàng tử, hoàng thân quốc thích, các quan lại và doanh trại quân lính cũng tập trung tại khu vực Kinh thành. Đây là những công trình kỳ vĩ nằm xen kẽ với phố phường buôn bán và nơi ở, sản xuất của nhân dân, tạo thành tổ hợp phố phường thành thị sầm uất.
Thời Lý, Kinh thành Thăng Long được chia làm 61 phường là nơi ở, làm ăn, sản xuất và buôn bán của nhân dân. Nguyên nghĩa của chữ “phường” là “ô đất vuông”. 61 phường có từ thời Lý là 61 ô đất vuông tập hợp các hộ gia đình thành một đơn vị hành chính tương đương với một xã ở nông thôn. Các phường này được giới hạn với nhau bằng đường phố. Đây là kiểu quy hoạch kinh đô đặc trưng thời Trung đại. Tuy nhiên, Kinh đô Thăng Long lại có điểm đặc sắc riêng, ấy là mỗi phường đều là nơi tập trung các thợ thủ công làm chung một nghề và thường có chung một quê. Bởi vậy, người ta thường nói về “phường thợ xây”, “phường thợ mộc” hay “phường thợ hàn”. Phường từ một đơn vị hành chính đã gắn với nghề nghiệp chủ đạo của những người dân cư trú tại phường đó. Người dân thường mở cửa hàng bán sản phẩm của phường mình ở ven các con phố chạy qua phường, hình thành nên các con phố buôn bán chủ yếu chung một mặt hàng và phố được gọi tên theo mặt hàng kinh doanh từ đó. Điều này lý giải vì sao Thăng Long – Hà Nội cổ có những con phố mang tên Hàng Đồng, Hàng Nón, Hàng Tre
Trung tâm Kinh thành Thăng Long có Thái Hồ là nơi nhà Lý dựng Văn Miếu và trường Quốc Tử Giám. Phía Nam Thái Hồ là hồ Chu Tước (sau gọi là hồ Bích Câu, sau nữa được tách thành hồ Bảy Mẫu và hồ Thuyền Quang). Năm 1154, vua Lý Anh Tông cho dựng đàn Viên Khâu cạnh hồ Chu Tước để làm lễ Tế Giao hằng năm.
Thời Lý, hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đã tách khỏi sông Hồng, nhưng hồ Lục Thủy (hồ Gươm) và hồ Chu Tước thì vẫn ăn thông với sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch – hai con sông uốn khúc chảy quanh trong nội thành Thăng Long. Trên đoạn sông Tô Lịch cổ chạy qua Kinh thành Thăng Long được dựng một vài cây cầu để cư dân hai bên bờ sông có thể qua lại, giao thương: cầu Đông xây bằng đá, cầu Thái Hòa dựng bằng gỗ, cầu Cau và cầu Tây Dương.
Cũng do Kinh đô Thăng Long có hệ thống sông hồ thông thoáng nên hình thành những bến thuyền (từ cổ gọi là “búa”) tấp nập thuyền bè vào ra buôn bán: bến Triều Đông (Hòe Nhai), bến Thái Cực (Hàng Đào), bến Thái Tổ (Nguyễn Du), bến Giang Tân (Nghĩa Đô), bến Thiên Thu, bến Đại Thông (hiện chưa xác định thuộc khu vực nào)… Thăng Long thời xưa chợ và bến thuyền thường song hành với nhau như thế nên mới hình thành cách gọi “chợ búa” như dân ta vẫn quen dùng cho đến nay.
Kinh thành Thăng Long
Kinh thành Thăng Long nằm ven sông Hồng (còn gọi là sông Nhị, hay Lô Giang thời Lý). Các nhà vua thời Lý cho dựng bốn cung điện ven sông này để nhà vua và tùy tùng, quan lại ra xem lễ hội đua thuyền hằng năm. Bốn cung điện đó là Hàm Quang (được xây dựng năm 1011), Linh Quang (được xây dựng năm 1058), Thủy Tinh và cung Thánh Từ (được xây dựng vào đầu thế kỷ XII). Trong đó, cung Thánh Từ cũng chính là nơi dành cho Thái Hậu ở. Các cung điện ở đây đều được xây dựng với quy mô rất lớn thành quần thể cung điện nguy nga, tráng lệ. Chẳng hạn, bên trái điện Linh Quang được dựng thêm điện Kiến Lễ, bên phải là điện Sùng Nghi, mặt tiền dựng lầu chuông một cột 6 cạnh hình hoa sen (thời Lý, Phật giáo trở nên thịnh hành và hình ảnh hoa sen được cách điệu thành những họa tiết trang trí và công trình xây dựng, làm nên những công trình lịch sử như Chùa Một Cột…)
Chùa Một Cột
Bên hồ Dâm Đàm (hồ Tây), các nhà vua triều Lý cũng cho xây nhiều cung điện làm hành cung hoặc quán quan ngự trên mặt nước để xem đánh cá, bơi thuyền. Đầu thế kỷ XIII, công chúa Từ Hoa, con gái của vua Lý Thần Tông, ở cung Từ Hoa ven hồ Dâm Đàm đã cùng các cung nữ mở nghề trồng dâu nuôi tằm. Vì thế, nơi này mới có tên là trại Tàm Tang, sau đổi thành Nghi Tàm.
Còn bên hồ Lục Thủy, nhà Lý cho dựng nhiều công trình quan trọng, như tháp Báo Thiên và chùa Báo Thiên được dựng để ghi công chiến thắng quân Chiêm Thành, cung Chiêm Nữ là nơi dành cho các cung nữ Chiêm Thành bị bắt tới ở.
Thời Lý, do đạo Phật thịnh hành nên trong Kinh thành được nhà vua cho dựng nhiều chùa chiền, trong đó có nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa Vạn Tuế, chùa Diên Hựu, chùa Ngọc Hồ.
Theo thuyết phong thủy, nhà Lý cũng cho đắp nhiều núi giả để vừa được vận nước vững bền, vừa làm nơi thắng cảnh thưởng ngoạn. Có thể kể đến một vài ngọn núi nhân tạo này, như: Tam Sơn, Ngũ Nhạc, Khán Sơn, Sư Sơn. Cũng có ý kiến cho rằng, Nùng Sơn là một trong những ngọn núi nhân tạo như thế. Tuy nhiên, ý kiến này còn nhiều tranh cãi do Nùng Sơn còn được đồng nhất với núi Long Đỗ (rốn rồng) tồn tại từ trước khi nhà Lý dời đô về Thăng Long.
Bên bờ Đông sông Hồng, đối diện với Kinh thành, vua Lý Anh Tông cho dựng trạm Hoài Viễn làm nơi tiếp đón sứ giả các nước và tù trưởng các miền thiểu số tới kinh triều kiến nhà vua.
Như vậy, từ thời nhà Lý, Thăng Long đã trở thành không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính, quân sự mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của cả nước, với lối quy hoạch phố phường kiểu bàn cờ mang tính khoa học
nhà Trần duy trì qua 12 vị vua
nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tôn thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền.
Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long - kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều đại nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các mặt kinh tế, xã hội,giáo dục và nghệ thuật cũng hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện Tam giáo đồng nguyên, sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo - Nho giáo - Đạo giáo. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều,...là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa.
Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287.
1 .nói về thành Đại La ( Thăng Long thời Lý)
2nói về thời Trần (như bạn anh thư)
Nhà Trần trị vì đất nước ta được 175 năm (1225 - 1400), qua 12 đời vua, bao gồm: - Trần Thái Tông (1225-1258) - Trần Thánh Tông (1258-1278) - Trần Nhân Tông (1279-1293) - Trần Anh Tông (1293-1314) - Trần Minh Tông (1314-1329) - Trần Hiển Tông (1329-1341) - Trần Dụ Tông (1341-1369) - Trần Nghệ Tông (1370-1372) - Trần Duệ Tông (1372-1377) - Trần Phế Ðế (1377-1388) - Trần Thuận Tông (1388-1398) - Trần Thiếu Ðế (1398-1400)
♦ Trần Thái Tông(1225-1258):
Niên hiệu:
- Kiến Trung (1225-1231);
- Thiên ứng chính Bình (1232-1250);
- Nguyên Phong (1251-1258).
Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần (1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng.
Nhờ Trần Thủ Ðộ thu xếp. Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh (1225), lên làm vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Bởi vậy Trần Thủ Ðộ bắt vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Trần Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Ðộ đem quần thần tới đón về. Trần Thái Tông từ chối, nói rằng: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển. Thủ Ðộ ngoảnh lại nói với các quan: Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.
Nói đoạn truyền lệnh xây dựng cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Trần Thái Tông về triều. Trần Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.
Ðược ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Ðộ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Ðộ tha cho Trần Liễu.
Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Ðinh Tỵ (1257), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Ðộ, Trần Quốc Tuấn (Tức Hưng Ðạo Vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Ðại Việt quyết chống giặc. Bản thân Trần Thái Tông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha tên đạn.
Tháng 12 năm Ðinh Tỵ (21/1/1258) vua Thái Tông cùng Thái tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần phá tan quân Nguyên ở Ðông Bộ Ðầu, giải phóng Thăng Long.
Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiên học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khoá hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.
Trong văn bản Khoá du lục, có bài. “Tự Thiền Tông chỉ nam” của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về.
Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề “quốc gia xã tắc” lên trên hết, trước hết như thế. Thái độ đối với “quốc gia xã tắc” là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Ðại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên hòn đạn”, làm vua xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hoá đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho thái tử làm quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng cùng trông coi việc nước.
Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.
♦ Trần Thánh Tông (1258-1278):
Niên hiệu: Thiên Long (1258-1272); Bảo Phù (1273-1278).
Vua Thái Tông có 6 người con: Tĩnh Quốc Ðại vương Trần Quốc Khang, Thái tử Hoảng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông.
Thánh Tông là vị vua nhân từ, trung hậu. Ðối nội vua dốc lòng xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hoá dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy, dưới triều vua Thánh Tông không chỉ có các ông hoàng hay chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc Ðĩnh Chi. Bộ Ðại Việt Sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành vào năm Nhâm Thân (1272).
Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn.
Về đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Ðại Việt. Khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không còn bắt Ðại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt vua ta cứ 3 năm phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại ba người cùng các sản vật: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu vật là khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Ðại Việt, thật ra để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương thường trực cho nước láng giềng. Vua Trần Thánh Tông thừa biết giã tâm xâm lược của nhà Nguyên, nên tuy bề ngoài thần phục, nhưng vẫn khẩn trương tuyển mộ binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó. Năm Bính Dần (1266), vua Nguyên cho sang giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám trị. Vua Nguyên bằng lòng bỏ việc cống người nhưng lại bắt tuân thủ 6 điều khác: Vua phải thân vào chầu khẩu, phải chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ đặt quan giám trị.
Vua Ðại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm Tân Mùi (1271), vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt nhân đổi quốc huyện là Ðại Nguyên đòi vua Thánh Tông. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Chúng cho sứ sang tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, vua Thánh Tông trả lời rằng: Cột ấy lâu ngày đã mất.
Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo cơ xâm lược của nhà Nguyên.
Năm Ðinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc). Năm sau, vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái Khâm rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.
Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.
♦ Trần Nhân Tông(1279-1293):
Niên hiệu:
- Thiệu Bảo (1279-1284);
- Trùng Hưng (1285-1293).
Vua Trần Thánh Tông có 3 con, Thiên Thuỵ công chúa, Thái tử Khâm và Tả Thiên Vương Ðức Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm sinh năm Mậu Ngọ (1258) kế vị ngôi vua, lấy tên là Nhân Tông.
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Ðại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm.
Ngay sau khi Trần Nhân Tông lên ngôi, nhà Nguyên liền sai Lệ bộ Thượng thư sang sứ Ðại Việt. Sài Thung đến kinh thành, lên mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, rồi cho người đưa thư trách vua Trần Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu thiên triều.
Vua sai đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến. Năm Nhâm Ngọ (1282) vua Nguyên lại cho sứ sang dụ: Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng, ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người. Trần Nhân Tông đành cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về nước. Hay tin, Trần Nhân Tông sai tướng đem quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đi làm lính. Thấy không thể thu phục được vua Trần, Nhà Nguyên liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh xâm lược vào các năm 1285, 1287 toan làm cỏ nước Nam. Trong 2 lần kháng chiến này. Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng.
Sau 14 năm làm vua, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành thuỷ tổ phái Thiền Trúc Lâm, Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhân Tông thật sự là một triết gia lớn của Phật thể hiện được đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam. Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu và táo bạo.
Anh hùng cứu nước, triết nhân, thi sĩ là phẩm chất kết hợp hài hoà trong con người Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ Nhân Tông có tâm hồn thanh cao, phó...
thêm 09:15 làm j thế ?
nhầm