II. VIẾT (6.0 điểm)

Viết...">

K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
25 tháng 9

Trong kho tàng truyền thuyết phong phú của Việt Nam, câu chuyện về Sự Tích Hồ Gươm (hay Hồ Hoàn Kiếm luôn chiếm một vị trí đặc biệt, không chỉ vì ý nghĩa lịch sử mà còn vì vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của nó. Truyền thuyết này gắn liền với vị anh hùng dân tộc Lê Lợi và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV

Truyền thuyết kể rằng, khi đất nước đang chìm trong ách đô hộ của giặc Minh, lòng người căm phẫn và khao khát độc lập. Thấu hiểu ý trời và lòng dân, Đức Long Quân đã quyết định trao cho Lê Lợi một bảo vật thiêng liêng để giúp ông hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc: đó là Thanh Gươm Thần. Thanh gươm không được trao trực tiếp. Lưỡi gươm sáng chói được tìm thấy dưới đáy sông, còn chuôi gươm nạm ngọc lại được tìm thấy trên ngọn cây, tỏa ánh sáng rực rỡ, tất cả đều do người của Lê Lợi tình cờ nhặt được

khi lưỡi và chuôi hợp lại, thanh gươm trở nên hoàn chỉnh, mang sức mạnh phi thường. Nhờ có Thanh Gươm Thần, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, liên tiếp giành thắng lợi vang dội, cuối cùng đánh đuổi được giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Lê Lợi lên ngôi vua, lập nên nhà Hậu Lê, mở ra một thời kỳ thái bình thịnh trị

Saukhi đất nước yên bình, tong một lần nhà vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) dạo chơi trên chiếc thuyền rồng ở hồ Tả Vọng (tên cũ của Hồ Gươm), một Con Rùa Vàng lớn nổi lên mặt nước. Rùa Thần tiến đến gần thuyền vua, cất tiếng nói: “Xin bệ hạ hoàn trả lại gươm cho Long Quân!” Nhà vua hiểu ra rằng sứ mệnh của thanh gươm đã hoàn thành. Vua bèn rút gươm trao cho Rùa Vàng.Rùa Thần đón lấy gươm, ngậm vào miệng rồi lặn xuống đáy hồ. Kể từ đó, hồTả Vọng được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Trả Gươm) minh chứng cho lòng nhân ái, hòa bình của dân tộc và sự đồng lòng giữa Trời – Đất – Người trong công cuộc cứu nước

Truyền thuyết này không chỉ là một câu chuyện thần kỳ mà còn thể hiện tinh thần thượng võ và yêu chuộng hòa bình của người Việt, nhắc nhở các thế hệ về công lao của cha ông và ý nghĩa thiêng liêng của độc lập, tự do

11 giờ trước (16:36)

Trong số các truyền thuyết cổ xưa của dân tộc Việt Nam, câu chuyện về Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ là một huyền thoại giải thích hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất của người Việt trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai.

Truyền thuyết kể rằng, vào đời vua Hùng thứ 18, có một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Vua Hùng muốn kén cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã mở hội thi tuyển rể. Từ khắp nơi, nhiều chàng trai tài giỏi tìm đến, nhưng nổi bật nhất là hai vị thần: Sơn Tinh và Thủy Tinh.

Sơn Tinh là một chàng trai khôi ngô, có tài lạ: chỉ cần vẫy tay, núi đồi trùng điệp sẽ mọc lên, cây cối xanh tươi. Thủy Tinh cũng không kém cạnh, chàng có khả năng hô mưa gọi gió, làm cho biển cả và sông ngòi cuộn trào. Cả hai đều tài giỏi ngang sức ngang tài, khiến Vua Hùng khó lòng lựa chọn.

Cuối cùng, Vua Hùng đặt ra điều kiện thách cưới: "Sáng sớm hôm sau, ai mang đến sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến trước, người đó sẽ được cưới Mị Nương."

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng, Sơn Tinh đã mang đầy đủ sính lễ đến trước. Vua Hùng giữ lời hứa, gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thần Núi rước vợ về núi Tản Viên.

Khi Thủy Tinh đến nơi, thấy Mị Nương đã theo chồng, chàng vô cùng giận dữ. Cảm thấy bị sỉ nhục, Thủy Tinh đã nổi cơn lôi đình, dốc toàn lực để báo thù. Thần Nước hô mưa, gọi gió, làm nước biển dâng cao, dìm chìm đồng bằng, muốn nhấn chìm núi Tản Viên để cướp lại Mị Nương.

Trước sức mạnh kinh hoàng của nước, Sơn Tinh không hề nao núng. Thần Núi dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, Sơn Tinh đắp đất, nâng núi cao lên bấy nhiêu. Cuộc chiến kéo dài ròng rã suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, sức Thủy Tinh kiệt dần, đành phải rút lui.

Tuy nhiên, mối thù này không bao giờ dứt. Hàng năm, cứ đến mùa mưa bão, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh để đòi Mị Nương, gây ra cảnh lũ lụt khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và năm nào cũng vậy, Sơn Tinh vẫn chiến thắng, giữ vững bờ cõi và bảo vệ cuộc sống của người dân.

11 giờ trước (16:28)

Trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, không có câu chuyện nào lại gắn bó sâu sắc với Thủ đô Hà Nội và tinh thần yêu nước hơn Truyền thuyết Hồ Gươm (hay Hồ Hoàn Kiếm). Truyền thuyết này không chỉ giải thích nguồn gốc của một di tích lịch sử mà còn tôn vinh chiến thắng vĩ đại và phẩm chất cao đẹp của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi.

Câu chuyện bắt đầu vào thời kỳ đất nước chìm trong ách đô hộ của giặc Minh. Khi đó, thủ lĩnh Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đang gặp vô vàn khó khăn, thiếu vũ khí và lương thực. Long Quân (Vua Rồng), cảm thương trước cảnh lầm than và thấy được ý chí quật cường của Lê Lợi, đã quyết định trao tặng một thanh gươm thần để giúp ông đánh đuổi quân xâm lược.

Thanh gươm thần này không được trao trực tiếp. Thay vào đó, một lưỡi gươm sáng chói được tìm thấy trong lưới của ngư dân Lê Thận. Sau đó, một chuôi gươm nạm ngọc lại được chính Lê Lợi tìm thấy dưới gốc cây đa. Khi tra vào, lưỡi gươm và chuôi gươm khớp nhau một cách kỳ diệu, tạo thành thanh gươm báu mang tên ''Thuận Thiên''. Từ khi có gươm thần, nghĩa quân Lam Sơn như được tiếp thêm sức mạnh, liên tục giành thắng lợi và cuối cùng đánh đuổi được giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc.

Sau khi đất nước thái bình, Lê Lợi lên ngôi vua (Lê Thái Tổ). Một hôm, nhà vua đang đi thuyền dạo chơi trên chiếc hồ lớn ở kinh thành. Bỗng nhiên, một con Rùa Vàng lớn nổi lên mặt nước, tiến về phía thuyền Rồng. Rùa Vàng cất tiếng nói rõ ràng: "Xin bệ hạ hoàn trả gươm thần cho Long Quân!".

Nhà vua hiểu rằng sứ mệnh của thanh gươm đã hoàn thành, chiến tranh đã kết thúc, và lòng nhân ái mới là thứ cần thiết để xây dựng đất nước. Vua Lê Lợi liền rút gươm trao trả cho Rùa Vàng. Rùa Vàng ngậm thanh gươm báu rồi lặn xuống đáy hồ và biến mất. Kể từ đó, chiếc hồ được đặt tên là Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Trả Gươm), còn được gọi là Hồ Gươm.

Truyền thuyết Hồ Gươm là một câu chuyện đẹp không chỉ về lòng dũng cảm chiến đấu mà còn về tinh thần hòa bình. Nó khẳng định rằng, vũ khí thần thánh chỉ cần thiết khi đất nước bị xâm lăng. Khi độc lập đã được thiết lập, thanh gươm phải được trao trả, biểu tượng cho việc dân tộc ta gác lại chiến tranh, tập trung vào xây dựng cuộc sống thái bình. Hồ Gươm và tháp Rùa vẫn đứng đó giữa lòng Hà Nội, như một lời nhắc nhở vĩnh cửu về truyền thống yêu nước, giữ gìn hòa bình và sự kết nối thiêng liêng giữa con người với đất trời.

21 tháng 9

Câu 1: Tác hại của thói bắt chước đối với con người trong cuộc sống


Dàn ý:

  1. Mở bài:
    • Giới thiệu khái quát về thói quen bắt chước. Bắt chước có thể là một phần tự nhiên của quá trình học hỏi, nhưng bắt chước mù quáng lại là một thói quen tiêu cực.
    • Nêu vấn đề chính: Thói bắt chước mù quáng mang lại nhiều tác hại nghiêm trọng cho con người.
  2. Thân bài:
    • Làm mất đi bản sắc và cá tính: Khi bắt chước, con người không còn là chính mình. Họ sống theo khuôn mẫu của người khác, dần dần đánh mất những nét riêng, sở thích và giá trị cá nhân. Đây là biểu hiện của sự thiếu tự tin và hèn nhát trong việc thể hiện bản thân.
    • Gây ra sự thất bại: Điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người là khác nhau. Bắt chước cách làm của người khác mà không có sự cân nhắc, sáng tạo sẽ rất dễ dẫn đến thất bại. Chẳng hạn, một người khởi nghiệp bắt chước mô hình kinh doanh của một công ty lớn mà không xem xét thị trường, vốn và năng lực của mình sẽ khó thành công.
    • Gây cản trở sự phát triển: Khi chỉ biết bắt chước, con người sẽ không còn động lực để tư duy, sáng tạo và tìm tòi cái mới. Xã hội sẽ dậm chân tại chỗ nếu ai cũng đi theo lối mòn cũ.
    • Mất đi sự tôn trọng của người khác: Một người chỉ biết bắt chước thường không được đánh giá cao, vì họ không có ý kiến độc lập và không thể tự đưa ra quyết định.
  3. Kết bài:
    • Khẳng định lại vấn đề: Thói bắt chước mù quáng là một rào cản lớn đối với sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội.
    • Nêu giải pháp: Mỗi người cần học cách sống là chính mình, biết lắng nghe, học hỏi nhưng phải có chọn lọc và sáng tạo để tạo nên dấu ấn riêng.


Câu 2: Kể lại một trải nghiệm có ý nghĩa sâu sắc đối với em


Dàn ý:

  1. Mở bài:
    • Giới thiệu về trải nghiệm đó. Nêu cảm nhận ban đầu của bạn về nó. Ví dụ: "Trong cuộc đời mỗi người, có những khoảnh khắc tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc..." hoặc "Đó là một buổi chiều mưa, nhưng lại là lúc tôi nhận ra giá trị của lòng nhân ái..."
  2. Thân bài:
    • Bối cảnh: Kể lại bối cảnh xảy ra câu chuyện: thời gian, địa điểm, những nhân vật liên quan.
    • Diễn biến:
      • Tường thuật lại toàn bộ câu chuyện theo trình tự thời gian.
      • Tập trung vào những chi tiết quan trọng, gây ấn tượng mạnh. Dùng các từ ngữ miêu tả sinh động để người đọc cảm nhận được cảm xúc của bạn khi đó (vui, buồn, thất vọng, bất ngờ...).
      • Điểm mấu chốt: Sự kiện nào đã làm thay đổi suy nghĩ, cảm xúc của bạn?
    • Ý nghĩa: Phân tích sâu sắc ý nghĩa của trải nghiệm đó.
      • Bạn đã học được điều gì từ câu chuyện? (ví dụ: sự kiên trì, lòng biết ơn, tình yêu thương, sự tha thứ...)
      • Trải nghiệm đó đã thay đổi bạn như thế nào? (ví dụ: giúp bạn tự tin hơn, biết trân trọng cuộc sống hơn, thay đổi cách nhìn về một vấn đề nào đó...).
  3. Kết bài:
    • Tổng kết lại giá trị của trải nghiệm.
    • Khẳng định lại rằng trải nghiệm đó sẽ mãi là một bài học quý giá, một kỷ niệm không thể quên.
23 tháng 11 2021
     Ngày xưa có một người con trai thần Long Nữ tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thân ở dưới nước và ở cả trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở.

Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng hạ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lại. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.

Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăn trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường.

Lạc Long Quân vì nhớ mẹ và không quen ở trên cạn nên đành từ biệt Âu Cơ và đàn con trở về Thuỷ Cung.

Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:

- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?

Lạc Long Quân nói:

- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao, nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.

Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:

- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.

Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:

- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.

Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:

- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.

Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:

- Nàng đừng làm mủi lòng ta. Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.

Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.

Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.

Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên, coi tổ tiên mình là vua Hùng.

 
16 tháng 3 2022

THAM KHẢO :

“Thạch Sanh” là một truyện rất hay mà em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này đã được cô giáo em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đây.

Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi người, Ngọc Hoàng bèn sai Thái tử xuống đầu thai làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng đã qua mấy năm mà không sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh mà mất. Mãi về sau người vợ mới sinh được một cậu con trai.

 

Khi cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới gốc da, cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh.

Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông. Lý Thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đến sống chung với mẹ con Lý Thông.

Bấy giờ trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan quân không làm gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.

Năm ấy, đến lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh miếu để chết thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện ra. Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh và lấy được một bộ cung tên bằng vàng mang về nhà. Mẹ con Lý Thông lúc đầu hoảng sợ vô cùng, nhưng sau đó Lý Thông nảy ra một kế dụ Thạch Sanh trốn đi vì đã chém chết con trăn của vua nuôi đã lâu.

Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Lý Thông, trở về dưới gốc đa. Còn Lý Thông hí hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua. Hắn được vua khen và phong cho làm Quận công.

Năm ấy, vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh và bị chàng dùng tên vàng bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.

Từ ngày công chúa bị mất tích, vua vô cùng đau khổ, hứa gả công chúa và truyền ngôi cho ai tìm được công chúa. Lý Thông tìm gặp lại Thạch Sanh và được chàng cho biết chỗ ở của đại bàng. Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết chết con quái vật rồi lấy dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Lý Thông kéo lên. Không ngờ, sau đó Lý Thông ra lệnh cho quân sĩ dùng đá lấp kín cửa hang lại. Thạch Sanh tìm lối ra và tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Chàng được vua Thủy Tề tặng cho cây đàn.

Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong kho nhà vua, đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.

Lại nói chuyện nàng công chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng cười. Bao nhiêu thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng đàn vẳng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi Thạch Sanh đên. Chàng kể hết sự tình. Vua sai bắt hai mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng không giết mà cho chúng về quê làm ăn. Giữa đường, chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.

Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử các nước chư hầu đến cầu hôn không được, liền tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch Sanh lấy cây đàn ra gảy. Binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân, không đánh nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ thua trận bằng một niêu cơm tí xíu. Quân sĩ mười tám nước ăn mãi mà không hết. Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước.

Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.

Càng nghe câu chuyện, em càng yêu quý tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch Sanh và càng căm ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Lý Thông. Em tự hứa với lòng là sẽ noi theo tấm gương tốt để trở thành người có ích cho xã hội vì em hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện cổ tích này là ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.

C1:văn bản bài học đường đời đầu tiên.Của Tô Hoài

C2:Tả dế mèn