K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1: Viết bài văn nghị luận xã hội (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề: Tuổi trẻ với việc giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.


LƯU Ý GHI DỰA VÀO DÀN Ý PHÍA DƯỚI K CHÉP MẠNG

1.Mở bài:

Giới thiệu vấn đề di sản văn hóa dân tộc và vai trò quan trọng của tuổi trẻ trong việc giữ gìn và bảo vệ.

Nêu khái quát tầm quan trọng của việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay.

2. Thân bài:

a. Giải thích:

– Di sản văn hóa dân tộc là gì? – Bao gồm di sản vật thể (di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc…) và di sản phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, văn hóa truyền miệng…).

b. Biểu hiện/ Thực trạng:

 Những nỗ lực của một bộ phận tuổi trẻ trong việc bảo vệ di sản:

 – Tham gia các phong trào tình nguyện bảo vệ di sản văn hóa, tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, tái hiện các lễ hội truyền thống.

– Đưa di sản vào nội dung sáng tạo trên các nền tảng truyền thông xã hội để quảng bá rộng rãi hơn.

 – Thực trạng đáng lo ngại:

– Một số di sản đang bị xuống cấp hoặc bị mai một do thiếu sự quan tâm, ý thức kém trong cộng đồng. – Sự thiếu hiểu biết của một bộ phận giới trẻ dẫn đến hành động xâm phạm hoặc không tôn trọng các quy tắc bảo vệ di sản.

c. Ý nghĩa: Tầm quan trọng của di sản văn hóa:

– Di sản văn hóa lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc, góp phần hình thành bản sắc dân tộc và tạo nên sự gắn kết giữa các thế hệ.

– Giữ gìn và phát huy di sản giúp tuổi trẻ hiểu và tự hào về cội nguồn, tạo niềm tự hào dân tộc, khơi dậy tình yêu đất nước.

– Góp phần phát triển kinh tế – xã hội

– Du lịch văn hóa, phát triển cộng đồng gắn liền với việc bảo tồn di sản.

– Tạo nền tảng giao lưu quốc tế

– Bảo tồn di sản giúp nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia.

d. Giải pháp:

– Nâng cao nhận thức của tuổi trẻ qua giáo dục và truyền thông:

– Tích cực đưa nội dung về di sản vào chương trình giáo dục, tổ chức các buổi nói chuyện, tham quan, và tìm hiểu về di sản.

– Khuyến khích tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản:

+ Các phong trào tình nguyện bảo vệ di tích lịch sử, lễ hội văn hóa.

+ Sử dụng công nghệ hiện đại (mạng xã hội, ứng dụng thông minh) để quảng bá di sản. – Chính sách hỗ trợ từ nhà nước và cộng đồng:

+  Đầu tư bảo tồn, khôi phục di sản và ban hành quy định bảo vệ di sản chặt chẽ hơn.

e. Ý kiến trái chiều và phản biện:

– Ý kiến trái chiều: Có ý kiến cho rằng việc bảo vệ di sản chỉ là trách nhiệm của cơ quan chức năng, còn tuổi trẻ nên tập trung phát triển kinh tế, học tập.

– Phản biện: – iệc giữ gìn di sản văn hóa không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà cần sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ – người sẽ tiếp nối và phát huy các giá trị văn hóa. Tham gia bảo vệ di sản không làm cản trở việc học tập, mà còn góp phần tạo động lực, khơi gợi ý chí phát triển toàn diện cho tuổi trẻ.

  1. Kết bài: 

– Khẳng định lại vai trò quan trọng của tuổi trẻ trong việc bảo vệ di sản văn hóa.

– Kêu gọi sự ý thức và trách nhiệm từ thế hệ trẻ để giữ gìn những giá trị tốt đẹp của dân tộc cho tương lai.

Mái ấm ngôi nhà ; đọc hiểu mái ấm ngôi nhà ; mái ấm ngôi nhà trương hữu lợi


2
13 tháng 4

bạn có dàn ý rồi thì có thể chuyển sang thành bài và chỉnh sửa lại cho phù hợp nhé không cần phải hỏi đâu( ý kiến riêng )

13 tháng 4

Di sản văn hóa dân tộc là kho tàng quý báu kết tinh từ quá trình dựng nước và giữ nước lâu dài của cha ông ta. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc bảo tồn và phát huy giá trị của những di sản ấy là trách nhiệm không chỉ của các cơ quan chức năng mà còn là nghĩa vụ của toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuổi trẻ với sức sống, trí tuệ và lòng nhiệt huyết chính là lực lượng tiên phong trong việc giữ gìn và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.

Di sản văn hóa dân tộc bao gồm hai nhóm chính: di sản vật thể như đền chùa, di tích lịch sử, công trình kiến trúc... và di sản phi vật thể như lễ hội truyền thống, ca dao, tục lệ, phong tục tập quán… Những di sản ấy không chỉ mang giá trị lịch sử, nghệ thuật mà còn là dấu ấn đậm nét của bản sắc dân tộc, là sợi dây kết nối giữa các thế hệ người Việt.

Trong thực tế, không ít bạn trẻ đã thể hiện tinh thần trách nhiệm với di sản thông qua việc tham gia các hoạt động tình nguyện bảo vệ di tích, tổ chức lễ hội truyền thống, hay sử dụng mạng xã hội để quảng bá văn hóa dân tộc. Nhiều chương trình giao lưu, sáng tạo nội dung số xoay quanh chủ đề văn hóa đã góp phần đưa hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít người trẻ thiếu kiến thức, thờ ơ hoặc vô tình làm tổn hại di sản do thiếu ý thức – điều này đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc giáo dục và nâng cao nhận thức về giá trị của di sản.

Việc bảo vệ di sản không chỉ góp phần gìn giữ cội nguồn văn hóa dân tộc mà còn giúp tuổi trẻ hiểu và tự hào hơn về truyền thống, từ đó khơi dậy tình yêu quê hương, tinh thần trách nhiệm và ý chí vươn lên. Di sản còn là nền tảng cho sự phát triển du lịch, góp phần thúc đẩy kinh tế, đồng thời tạo cầu nối giao lưu văn hóa với bạn bè năm châu.

Để làm được điều đó, cần tăng cường giáo dục về di sản trong nhà trường, khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia các hoạt động thực tiễn như tham quan, tìm hiểu di tích, tham gia lễ hội truyền thống... Ngoài ra, cần phát huy vai trò của công nghệ, mạng xã hội trong việc quảng bá di sản, đồng thời có chính sách cụ thể từ nhà nước để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.

Có ý kiến cho rằng việc giữ gìn di sản là trách nhiệm của cơ quan chức năng, còn người trẻ nên ưu tiên học tập và phát triển bản thân. Tuy nhiên, việc bảo vệ di sản không làm cản trở sự phát triển cá nhân mà ngược lại, còn bồi dưỡng thêm lý tưởng sống, lòng tự hào dân tộc và trách nhiệm công dân cho thế hệ trẻ.

Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là người gìn giữ và tiếp nối những giá trị truyền thống. Mỗi bạn trẻ hãy là một sứ giả văn hóa, có ý thức bảo vệ và phát huy di sản dân tộc để những giá trị ngàn đời ấy không chỉ được lưu truyền mà còn tỏa sáng giữa lòng hiện đại. Giữ gìn di sản hôm nay chính là gìn giữ bản sắc, linh hồn của dân tộc cho mai sau.

21 tháng 3 2020

Bài làm:

Theo chiều dài lịch sử, đất nước ta trải qua hơn bốn ngàn năm và kho tàng văn hóa đã được cha ông luôn luôn gìn giữ và truyền lại cho đời sau. Những bản sắc ấy tạo nên sức mạnh dân tộc, gắn kết những người con đất Việt tạo nên bức trường thành đứng vững đến hôm nay.

Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng.

Xin chữ đầu năm để cầu mong may mắn, sức khỏe, phúc lộc hay bình an là nét đẹp truyền thống của dân tộc ta mỗi khi tết đến xuân về. Cùng với bánh trưng xanh, đôi câu đối trên giấy đỏ thắm được treo trang trọng trong mỗi căn nhà. Hình ảnh ông đồ với bút nghiên và giấy mực, chăm chút và gửi hồn cho từng nét chữ trên phố đông người qua lại như biểu tượng cho một dân tộc hiếu học, đề cao con chữ. Thế nhưng, nét văn hóa ấy dần bị đổi thay theo năm tháng, các thầy đồ ngày cằng vắng bóng trong những ngày tết Nguyên đán. Chúng ta không khỏi ngậm ngùi, xót thương và suy ngẫm cho một phong tục văn hóa ngày một suy tàn. Bởi phong tục ấy gắn với cả một thời kì dài phát triển rực rỡ của nho học dân tộc

Không chỉ phong tục xin chữ ông đồ đầu năm ngày càng phai nhạt, hiện nay nhiều giá trị văn hóa truyền thống cũng đang đứng trước nguy cơ mai một. Có thể kể đến các loại hình sân khấu truyền thống như múa rối nước, cải lương… ngày càng vắng bóng khán giả hay các lễ hội dân gian ngày càng xa lạ với giới trẻ. Đó là những hồi chuông cảnh báo về tình trạng xa rời văn hóa truyền thống trong một bộ phận giới trẻ hiện nay. Nguyên nhân là bởi sự hấp dẫn của những văn hóa du nhập từ nước ngoài hay những trò chơi điện tử, mạng xã hội. Điều ấy khiến những người trẻ không còn hiểu và tự hào về một thời kì rực rỡ của lịch sử dân tộc, của bao công sức mà thế hệ cha ông đã gìn giữ và lưu truyền  Một dân tộc không còn giữ được bản sắc văn hóa sẽ là một dân tộc dần suy tàn.

Trong xu thế hiện đại, hội nhập về văn hóa là điều không tránh khỏi và góp phần làm đa dạng nền văn hóa của đất nước. Nhưng “hòa nhập mà không hòa tan” là điều chúng ta cần hướng đến. Học hỏi để làm đa dạng, giàu có nền văn hóa đất nước là điều cần thiết nhưng bảo tồn và phát huy truyền thống vẫn cần được chú trọng. Đưa các loại hình sân khấu truyền thống vào trường học, giữ gìn và giáo dục con cháu về các phong tục tập quán truyền thống trong mỗi gia đình vào dịp dễ tết… sẽ giúp thế hệ trẻ hiểu và yêu hơn những tinh hoa dân tộc.

Như vậy việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi người trẻ chúng ta hiện nay. Việc tiếp thu có chọn lọc văn hóa ngoại quốc là điều rất cần thiết. Kho sử về văn hóa dân tộc được viết tiếp và phát triển đến đâu, chính là nhờ trái tim và khối óc của thế hệ trẻ chúng ta hôm nay cùng nhau vun đắp.

Tham khảo

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
4 tháng 9

tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa hai vẻ đẹp đối lập mà thống nhất của con người và mảnh đất Việt Nam qua hai khổ thơ trong bài "Quê hương". Khổ đầu tiên mở ra không gian văn hóa đậm chất thơ mộng, nơi con người gắn bó với âm nhạc và thi ca từ khi còn trong bụng mẹ.Hình ảnh "tiếng hát, "làm thơ" không chỉ thể hiện sự lãng mạn, hồn hậu mà còn là nét tính cách đặc trưng của người dân quê. Cánh cò đưa võng, vốn là hình ảnh bình dị, nay trở thành biểu tượng nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ trong một không gian yên bình. tuy nhiên, khi quê hương lâm nguy, vẻ đẹp hiền hòa bỗng chốc hóa thành sức mạnh quật cường. Khổ thơ thứ hai chuyển sang giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng. Tre làng, vốn thân thuộc, nay "xả thân làm ngọn mác, mũi chông", trở thành vũ khí chiến đấu. Con người, từ "trai gái thôn Đông, xóm Bắc" hiền lành, chất phác, đã "thoắt vươn vai thành những anh hùng".Hai khổ thơ này bổ sung cho nhau, tạo nên cái nhìn toàn diện về quê hương: vừa có vẻ đẹp trữ tình, thanh bình trong cuộc sống thường nhật, vừa chứa đựng sức mạnh tiềm tàng,tinh thần kiên cường khi đối diện với kẻ thù

4 tháng 9

Hai khổ thơ trong bài "Quê hương" của Nguyễn Bính thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất quê hương, đồng thời ca ngợi những phẩm chất đặc biệt của con người nơi đây.

Khổ thơ đầu tiên gợi ra hình ảnh một quê hương gắn liền với những âm thanh của làn điệu dân ca, là nơi mà trong "bụng mẹ" đã biết mê tiếng hát. Đây là một hình ảnh đầy chất thơ, cho thấy sự hòa quyện giữa con người và quê hương, nơi mà truyền thống văn hóa, đặc biệt là văn học, đã ăn sâu vào tiềm thức từ những ngày đầu đời. Tiếng hát quê hương không chỉ là biểu tượng của sự ấm áp, yêu thương mà còn phản ánh bản sắc dân tộc trong mỗi con người nơi đây.

Khổ thơ thứ hai chuyển hướng, thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh bảo vệ quê hương. Những "tre làng" trở thành "ngọn mác, mũi chông", tượng trưng cho sự kiên cường của con người khi đối mặt với kẻ thù. Các trai gái thôn Đông, xóm Bắc “thoắt vươn vai thành anh hùng", khẳng định tinh thần bất khuất và sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong những giờ phút khó khăn.

Như vậy, qua hai khổ thơ, tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa vẻ đẹp của quê hương trong cả khía cạnh văn hóa lẫn tinh thần chiến đấu kiên cường.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)Đọc văn bản sau: NHỚ HUẾ QUÊ TÔISông núi vươn dài tiếp núi sôngCò bay thẳng cánh nối đồng khôngCó người bảo Huế xa, xa lắmNhưng Huế quê tôi ở giữa lòngMười một năm trời mang Huế theoĐèo cao nắng tắt bóng cheo leoGiọng hò mái đẩy vờn mây núiMan mát sông Hương lướt đỉnh đèoTôi gặp bao người xứ Huế xaĐèn khuya thức mãi chí xông phaMở đường...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:

NHỚ HUẾ QUÊ TÔI

Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mát sông Hương lướt đỉnh đèo

Tôi gặp bao người xứ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
Mở đường giải phóng về quê mẹ
Dựng khắp non sông bóng xóm nhà

Có bao người Huế không về nữa
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất
Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành
Bao lần máu đỏ nhuộm đồng xanh
Cờ sao ngày ấy buồn cung cấm
Sông nước xôn xao núi chuyển mình

Bao độ thu về, thu lại qua
Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa
Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ
Càng giục canh sương rộn tiếng gà.

Hà Nội, thu, năm 1936
(Thanh Tịnh, Thơ ca, NXB Quân đội nhân dân, 1980)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ “Nhớ Huế quê tôi” được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Tìm những từ ngữ, hình ảnh miêu tả quê hương của tác giả trong khổ thơ thứ nhất.

Câu 3. Phân tích tác dụng của một từ tượng hình có trong bài thơ trên.

Câu 4. Trình bày cảm hứng chủ đạo của bài thơ? Căn cứ vào đâu em xác định như vậy?

Câu 5. Phân tích mạch cảm xúc của bài thơ trên.

Câu 6. Từ câu thơ “Có bao người Huế không về nữa/ Gửi đá ven rừng chép chiến công”, em hãy viết một đoạn văn (7 – 10 dòng) nêu suy nghĩ của mình về sự hi sinh cao cả của những con người đã ngã xuống cho độc lập, tự do; đồng thời liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống ấy.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)Đọc văn bản sau: NHỚ HUẾ QUÊ TÔISông núi vươn dài tiếp núi sôngCò bay thẳng cánh nối đồng khôngCó người bảo Huế xa, xa lắmNhưng Huế quê tôi ở giữa lòngMười một năm trời mang Huế theoĐèo cao nắng tắt bóng cheo leoGiọng hò mái đẩy vờn mây núiMan mát sông Hương lướt đỉnh đèoTôi gặp bao người xứ Huế xaĐèn khuya thức mãi chí xông phaMở đường...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:

NHỚ HUẾ QUÊ TÔI

Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mát sông Hương lướt đỉnh đèo

Tôi gặp bao người xứ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
Mở đường giải phóng về quê mẹ
Dựng khắp non sông bóng xóm nhà

Có bao người Huế không về nữa
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất
Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành
Bao lần máu đỏ nhuộm đồng xanh
Cờ sao ngày ấy buồn cung cấm
Sông nước xôn xao núi chuyển mình

Bao độ thu về, thu lại qua
Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa
Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ
Càng giục canh sương rộn tiếng gà.

Hà Nội, thu, năm 1936
(Thanh Tịnh, Thơ ca, NXB Quân đội nhân dân, 1980)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ “Nhớ Huế quê tôi” được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Tìm những từ ngữ, hình ảnh miêu tả quê hương của tác giả trong khổ thơ thứ nhất.

Câu 3. Phân tích sắc thái nghĩa của từ “nhuộm” trong dòng thơ “Bao lần máu đỏ nhuộm đồng xanh”.

Câu 4. Trình bày cảm hứng chủ đạo của bài thơ? Căn cứ vào đâu em xác định như vậy?

Câu 5. Phân tích mạch cảm xúc của bài thơ trên.

Câu 6. Từ câu thơ “Có bao người Huế không về nữa/ Gửi đá ven rừng chép chiến công”, em hãy viết một đoạn văn (7 – 10 dòng) nêu suy nghĩ của mình về sự hi sinh cao cả của những con người đã ngã xuống cho độc lập, tự do; đồng thời liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống ấy.

0