Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 | Thể thơ: tự do |
2 | Hai hình ảnh nói đến sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi biển đảo: - Gió rát mặt, Đá củ đậu bay, Nước ngọt hiếm… (Thí sinh chỉ ra đúng 2 hình ảnh được 0.5 điểm). |
3 | Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau. Hai dòng thơ trên cho thấy cuộc sống của người lính nơi đảo xa: - Đó là cuộc sống vô cùng khó khăn, gian khổ, mà người lính thường xuyên phải đối diện (gió bão, thiếu thốn…) - Tuy nhiên những người lính vẫn lạc quan, yêu đời. |
4 | - Tác giả thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với cuộc sống của những người lính đảo. - Đồng thời cho thấy sự trân trọng những phẩm chất đáng quý: tinh thần lạc quan, ý chí nghị lực phi thường và tình yêu tổ quốc. -> Nhận xét về tình cảm: - Đây là những tình cảm chân thành, thể hiện trái tim yêu thương tinh tế, sâu sắc của tác giả. - Tình cảm của tác giả cũng là đại diện cho tất cả những người dân Việt Nam dành tình yêu thương, sự cảm phục gửi đến những người lính nơi đảo xa. |
Câu 1 :thể thơ tự do
Câu 2: Những hình ảnh thể hiện cho sự gian khó ở Trường Sa: đá san hô kê lên thành sân khấu, vài tấm tôn chôn mấy cánh gà, gió rát mặt, đảo thay hình dáng, sỏi cát bay như lũ chim hoang.
Câu 3:
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.
Hai dòng thơ trên cho thấy cuộc sống của người lính nơi đảo xa:
- Đó là cuộc sống vô cùng khó khăn, gian khổ, mà người lính thường xuyên phải đối diện (gió bão, thiếu thốn…)
- Tuy nhiên những người lính vẫn lạc quan, yêu đời.
Câu 4 :Đoạn thơ trích trong bài "Lính đảo hát tình ca trên đảo" của tác giả Trần Đăng Khoa đã khẳng định được tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người lính hải đảo nơi Trường Sa khắc nghiệt cùng tinh thần yêu nước, hướng về tổ quốc của họ. Thật vậy, hình ảnh những người lính hải đảo hiện lên với tầm vóc vĩ đại và tình yêu bất biến dành cho tổ quốc. Đầu tiên, họ là những người lính bất chấp những khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt công việc. Điều kiện ở Trường Sa vô cùng khó khăn và khắc nghiệt: gió rát mặt, đảo thay đổi hình dạng, sỏi cát bay như lũ chim hoang. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy, những người lính hải quân vẫn hiên ngang và cất lên bài hát của tuổi trẻ. Không những có phẩm chất kiên cường mà ta còn thấy được tinh thần tươi trẻ và yêu đời của những người lính ấy. Thứ hai, họ là những người lính khát khao cống hiến cho tổ quốc. Tình yêu của họ được gửi gắm vào lời hát và tiếng lòng của trái tim "Nào hát lên". Tình yêu ấy là động lực để họ "đứng vững" trước những khó khăn và họ còn muốn hát lên cho trời đất, mây nước biết. Tổ quốc đối với những người lính trẻ là thiêng liêng và vĩnh hằng biết nhường nào. Tóm lại, đoạn thơ cho ta thấy được phong thái yêu đời cùng tình yêu tổ quốc của những người lính hải đảo ấy.

DÀN Ý
1. Đất nước nằm ngay trong bản thân của mỗi người, là một phần trong đời sống của mỗi người.
- Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
- Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình
2. Tác giả biện chứng về tinh thần đoàn kết gắn với sự trưởng thành của đất nước.
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn
- Chú ý khai thác khái niệm cầm tay, mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa đoàn kết và sự phát triển của đất nước
3. Sự trường tồn của đất nước gắn liền với sự tiếp nối của các thế hệ công dân.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- Chú ý khai thác mối quan hệ giữa Con ta - đất nước mơ mộng trong tương lai => Chứa đựng niềm tin vào sự trường tồn và tươi đẹp của Đất nước
4. Ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước
Phải biết gắn bó và san sẽ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời.”
- chú ý khai thác giọng điệu tự nhủ - nhắn nhủ và nghệ thuật điều kiểu câu cầu khiến “Phải biết...”, giả thích khái niệm “hóa thân”
5. Đánh giá chung:
- Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm : Trữ tình - chính luận.

câu 1: Đoạn trích được viết theo thể thơ tự do
Câu 2: Biện pháp nghệ thuật là so sánh
Câu 3: Những câu thơ trên miêu tả rõ hình ảnh con người trước biển: dù bão dông, thiên nhiên khắc nghiệt như nào thì con người vẫn luôn lạc quan hướng về phía trước, con người vẫn bình thản, chịu đựng những đau thương, khó khăn thử thách
Câu 4: tình yêu quê hương biển cả được tác giả thể hiện qua đoạn trích: tác giả đã dành tình yêu tha thiết với que hương mình, dù có bão giông, gió lốc thì biển vẫn là nơi tìm về của những đứa con làng chài. Biển còn là nơi ông cha ta làm lên tất cả vì vậy tình yêu biển vả còn là sự biết ơn, chân trọng quá khứ.
Câu 1 : Đoạn trính trên được viết theo thể thơ : Tự do
Câu 2: Biện pháp tu từ được sử dụng : So sánh
Câu3 :
- Hình tượng biển ( thiên nhiên ) dù bão giông,khắc nghiệt thì những con người lao động không vì thế mà sợ hãi - đó là cách con người làm chủ được thiên nhiên,coi đó chỉ như một thử thách,một lẽ thường tình của mẹ thiên nhiên,họ vẫn bình thản,bản lĩnh,kiên cường trước những đau thương mà thiiên nhiên gây ra.
- Người lao động Việt Nam mạnh mẽ,cần cù,luôn lạc quan,kiên cường vượt qua khó khăn vững bước trên mặt biển
Câu 4 :
Qua đoạn trích,có thể thấy được rõ nét nhất 2 thứ : Tình cảm sâu nặng mà tác giả dành cho biển cả quê hương và sư trân trọng công lao của ông cha ta trong quá khứ.Tình cảm của tác giả dành cho biển cả quê hương rất sâu sắc,dẫu có khắc nghiệt, khó khăn nhưng biển vẫn là nơi nuôi sống những con người Việt Nam,là nhà,là nơi ta tìm về.Đặc biệt,tình yêu không chỉ thể hiện qua sự trân trọng quá khứ, biết ơn công lao cha ông ta,phát huy lại truyền thống dân tộc,tao nên sức mạnh đoàn kết giữa người với người

1.Mở bài:
+Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
+Dẫn vào yêu cầu của đề: trích câu đầu câu cuối đoạn thơ và nội dung đoạn trích.
2.Thân bài:
a.Khái quát:
-Vị trí xuất xứ đoạn thơ: Nằm ở phần đầu (những cảm nhận chung về Đất Nước), đoạn thơ nói về những định nghĩa mới mẻ về Đất Nước và lí giải nguồn gốc của người Việt.
b.Cụ thể:
(Chú ý kết hợp phân tích nội dung và nghệ thuật:)
*Quan điểm mới mẻ của tác giả về đất nước là được nhìn trong cái nhìn của bề rộng không gian địa lí và được nhìn trong chiều dài lịch sử:
- Đất Nước được cảm nhận gắn liền với không gian:
+ Không gian riêng: Nơi anh đến trường, nơi em tắm, nơi ta hò hẹn.
+Không gian chung: Dân ta đoàn tụ
+ Không gian hiện thực: Bờ sông nơi hò hẹn, con đường anh đến trường.
+ Không gian thần thoại: Chim về, Rồng ở, chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, cá ngư ông móng nước biển khơi…
=>định nghĩa về đất nước không chỉ gắn với không gian gần gũi thân thuộc (là nơi anh đến trường, em tắm, hẹn hò, nhung nhớ) mà còn gắn với không gian từ trong tiềm thức của con người (những câu chuyện thần thoại)
=>Cách định nghĩa Đất nước hết sức sáng tạo: được tạo nên từ hai thành tố Đất - Nước, rồi có sự gắn kết hòa hợp. việc sử dụng các biện pháp điệp từ, liệt kê, những chất liệu dân gian...)
- Chiều dài thời gian lịch sử: “ đằng đẵng”, từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ đến nay, thậm chí thế hệ con cháu sau này
+Lí giải cội nguồn của người dân Việt Nam: Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ.
+ Ý thức sâu sắc và sứ mệnh của mỗi người dân Việt Nam: “Những ai đã khuất… nhớ ngày giỗ Tổ”.
BÀI LÀM
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ chương V trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật sâu sắc nhất:
Đất là nơi anh đến trường
…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ
Như đã nói ở lúc đầu, Đất Nước không ở đâu xa mà ở ngay xung quanh chúng ta, gần gũi, thân thương quanh ta là cái kèo cái cột, hạt gạo ta ăn hằng ngày, câu truyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn... Và để làm rõ hơn về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tách Đất Nước thành hai thành tố Đất và Nước – một yếu tố thuộc âm, một yếu tố thuộc dương, để giải thích một cách đơn giản nhưng cụ thể về Đất Nước.
Bốn câu thơ đầu nhà thơ giải thích về Đất Nước theo lối chiết tự đi từ cái riêng đến cái chung.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Khi Đất Nước được tách ra thành hai thành tố nó gắn với kỉ niệm đáng yêu, đáng nhớ, thân thuộc của một đời người. Tách thành tố ĐẤT – để chỉ con đường hằng ngày anh tới trường, là ngôi trường cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Tách thành tố NƯỚC – Là dòng sông nơi em tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể: Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt. Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong cái ta chung. “Khi ta hò hẹn”, Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê thanh bình yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ… tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm sao. Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” . Câu thơ đậm đà chất dân ca ca dao, đặc trưng của văn hóa Việt xưa xa, gợi nhắc cho ta bài ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu và dễ thương làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu đôi lứa “Gói một chùm hoa/ Trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng/ Sang nhà hàng xóm” (Phan Thị Thanh Nhàn)
Tiếp tục tách hai thành tố Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại lí giải sâu sắc hơn nữa về Đất Nước: Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Tác giả cảm nhận Đất Nước trên bình diện không gian địa lý. Đất Nước được cảm nhận là“không gian mênh mông”. Có thể hiểu đó là núi sông, bờ cõi, là Bắc – Trung – Nam một dải. Là đất nước rừng vàng biển bạc. Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ - "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang - nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi". Đó là nơi dân mình đoàn tụ, phát triển giống nòi và làm ăn sinh sống làm nên non sông gấm vóc Việt Nam.
Tác giả cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ, địa lý mà Đất Nước còn gắn với lịch sử: đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt. Đó là truyền thuyết:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Câu truyện cổ “Sự tích trăm trứng” đã ra đời từ lâu đời nhằm lý giải nguồn gốc của người Việt. Từ câu truyện ấy dân ta muôn đời ta tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Cho nên đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai: “Những ai đã khuất / Những ai bây giờ”. Những ai đã khuất là những người trong quá khứ - những con người sống giản dị chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. Những ai bây giờ là những người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” bảo tồn nòi giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng “Gánh vác phần người đi trước để lại” . Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao “ Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba”. Cho nên tự trong bản thân nó đã bao hàm lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng.
Nguyễn Khoa Điềm, qua đoạn thơ trên, đã nêu những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước, từ chiều sâu của văn hóa văn tộc, chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước. Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liêu văn hóa dân gian, từ truyền thuyết lịch sử, phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động của dân tộc ta, kết hợp với những hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và giàu chất trí tuệ.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.
Câu 2: Lí do để nhân vật tôi muốn trở thành một người chính trực và biết yêu thương đó là lời nói của ba: Nhưng ba muốn con biết rằng ba mẹ sẽ rất hạnh phúc và tự hào nếu con trở thành một người chính trực và biết yêu thương.”
Câu 3: Việc tác giả trích câu “Khi ngươi dạy con trai mình, tức là ngươi dạy con trai của con trai ngươi.” trong Kinh Talmud có ý nghĩa:
- Khi chúng ta dạy cho con cái mình những điều tốt đẹp, chúng sẽ mang những điều tốt đẹp đó để cư xử với tất cả mọi người xung quanh và dạy dỗ thế hệ sau.
- Những điều tốt đẹp ấy sẽ lan tỏa, có sức ảnh hưởng tích cực đến muôn đời sau.
- Làm tăng ý nghĩa, tính triết lí cho văn bản.
- Làm tăng sức thuyết phục, tin cậy cho nội dung mà tác giả muốn gửi gắm.
Câu 4:
- Trong cuộc đời mỗi người luôn có nhiều người thầy nhưng cha mẹ luôn là người thầy đầu tiên của con.
- Mỗi chúng ta sẽ cảm thấy ấm áp và hạnh phúc vô cùng khi được học những điều bình dị từ chính người cha yêu quý của mình. Cha luôn là người dành cả tình yêu thương và tấm lòng bao la của tình phụ tử thiêng liêng để chỉ bảo ta trên đường đời.
- Bài học từ người thầy đầu tiên ấy là điều vô cùng quý giá, sẽ để lại dấu ấn sâu sắc và gợi nhiều kỉ niệm để nhớ về trên chặng đường sau này.

1, nghị luận
2, Tác dụng: nhấn mạnh thông điệp mà văn bản muốn truyền đạt đó là vai trò của hy vọng đối với đời sống tinh thần của mỗi con người.
3,
Tác giả cho rằng "hy vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được" bởi vì hy vọng chính là những niềm tin vào những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, là những niềm tin vững chắc vào những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Chính vì vậy, nhờ có hy vọng mà con người dù trong hoàn cảnh tồi tệ và tối tăm nhất vẫn sẽ luôn vững tin và có sức mạnh để tiếp tục nỗ lực và vượt qua được những thử thách chông gai. Nói cách khác, hy vọng chính là nguồn sức mạnh tinh thần của mỗi người trong cuộc sống.
4,
Thông điệp mà em tâm đắc nhất chính là "đừng bao giờ đánh mất hy vọng". Bởi vì hy vọng chính là nguồn sức mạnh giúp mỗi cá nhân vượt qua những thử thách, chông gai và mở ra con đường cho mỗi người định hướng trong tương lai. Nhờ có hy vọng mà con người vẫn tích cực và hạnh phúc sống dù trong hoàn cảnh bế tắc vì còn hy vọng là còn sức mạnh tinh thần để đạt được điều mà mình mong muốn.

Em không giỏi văn nên em chỉ xin nói lên một số ý kiến của mình về vấn đề này.
Ý kiến trên đôi khi đúng nhưng trong một vài trường hợp khác thì không hoàn toàn hợp lý. Đôi khi ta cần nói thẳng nhưng cũng có lúc ta cần tìm một cách diễn đạt khác phức tạp hơn, khó hiểu hơn, mang tính chiều sâu hơn. Khi cần góp ý chân thành, ta nên thẳng thắn trình bày quan điểm với họ, không cần thiết phải vòng vo, nói bóng gió để ám chỉ điều gì, tuy nhiên chúng ta nên lựa chọn những lời nói nhẹ nhàng nhưng thâm thúy, ý nghĩa, mang tính góp ý hơn là dạy bảo người khác. Cũng như thế, ta cũng nên thẳng thắn trình bày quan điểm của mình khi tranh luận với người khác, hay khi cần một sự tường minh, rõ ràng, dễ hiểu, dễ tiếp thu,....Tuy nhiên, như em đã nói ở trên, đôi khi chúng ta phải dùng cách ngược lại, nghĩa là không dùng cách nói thẳng, nói thật. Có thể lấy ví dụ như khi bác sĩ nói chuyện với bệnh nhân về bệnh tình của họ thì phải dùng những cách nói giảm, nói tránh, không thể bảo rằng bệnh tình của họ đã cực kì nghiêm trọng, rất nguy hiểm đến tính mạng, thậm chí chỉ sống được một thời gian ngắn nữa. Lý do là vì đại đa số ai trong chúng ta cũng sẽ bị sốc khi nhận được tin sét đánh này, dẫn đến việc nghĩ quẩn và làm những việc tổn hại đến bản thân và thậm chí là cả người khác. Trong trường hợp này, các y bác sĩ thường động viên, khích lệ bệnh nhân để họ có động lực sống tiếp, chiến thắng bệnh tật. Hay một ví dụ khác là không phải lúc nào ta cũng đủ dũng cảm, đủ dũng khí để nói thẳng, nói thật, khi này ta sẽ tìm một cách biểu đạt khác phức tạp hơn một chút là nói theo hướng ngược lại, biểu đạt bằng cảm xúc, bằng hành động, nhằm mục đích để người đối diện tự suy nghĩ và hành động theo cách hiểu của mình. Đâu phải nhân vật nào trong các tác phẩm văn học, trong những câu chuyện cũng nói thẳng với người kia, đôi khi họ chỉ chọn cách đơn giản nhất nhưng cũng phức tạp nhất là sự im lặng. Không nói thẳng cũng là một cách để ta thấy được mức độ hiểu nhau của cả 2 bên là như thế nào....
Trên đây là một số ý kiến của em về vấn đề này, tất nhiên còn nhiều thiếu sót, mong mọi người góp ý và thông cảm.
Bài làm của Trịnh Ngọc Hân:
Tôi đã từng đọc qua một câu nói: “Những người sống thật với chính mình là những người ý thức được suy nghĩ, mong muốn của mình và công khai thừa nhận với đối phương, không dùng vẻ bề ngoài mà trốn tránh cảm xúc thật bên trong”. Thật vậy, sống thật là sự hợp nhất giữa suy nghĩ, lời nói và hành động. Đó là lối sống mà mỗi con người chúng ta ai cũng cần phát triển. Điều này gợi ta nhớ đến câu chuyện tình yêu với tình huống ngang trái, trắc trở trong bài thơ “Em bảo anh đi đi…” của nữ thi sĩ người Armenia – Silva Kaputikian. Có thể nói bài thơ đã ăn sâu vào tiềm thức và có mặt trong những cuốn sổ tay của thế hệ yêu mến Văn học:
“Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay…
Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Không nhìn vào mắt em!”
Ta cảm nhận được tình yêu trong thơ của Silva Kaputikian vô cùng trắc trở, có sự đấu tranh mãnh liệt trong thế giới nội tâm của nhân vật, bên ngoài có vẻ cự tuyệt nhưng bên trong lại vô cùng tha thiết đối với “anh”. Tình huống ấy ắt hẳn gợi cho chúng ta nhiều câu tự vấn cần lời giải đáp, rằng: “Phải chăng cuộc sống sẽ đơn giản và tốt đẹp hơn nếu chúng ta luôn nói thẳng nói thật “yêu thì bảo là yêu, ghét thì bảo là ghét”, tránh những vòng vo bóng gió như cô gái trong bài thơ trên?” – đó cũng là lời phát biểu của một độc giả sau khi đọc bài thơ.
Từ cổ chí kim, chuyện tình cảm nam nữ vỗn đã là đề tài hấp dẫn độc giả. Những cặp đôi yêu đương luôn có nhiều điều khó nói với nhau, là vì e ngại, chưa đủ can đảm đối diện với người mình yêu? Hay là vì chưa dám bộc lộ những xúc cảm chân thành mạnh mẽ? Họ như những nụ hồng trong nắng sớm, tuy đẹp nhưng lại e ấp cảm xúc nồng nàn không dám bày tỏ với nhau. Như chính cô gái trong bài thơ, miệng thì bảo “anh đi đi” nhưng lòng lại muốn “anh ở lại”, bảo anh “đừng đợi” nhưng lại rất mong anh đợi. Tại sao cô gái phải dối lòng mình chứ? Tại sao bên ngoài tỏ ra cự tuyệt nhưng bên trong lại luyến tiếc chàng trai? Để rồi phải trách móc anh vì anh quá “nghe lời”, bảo anh đi thì anh cũng “không đứng lại” và rồi bảo anh “đừng đợi” anh cũng “vội về ngay”. Đối với cô gái tất cả những gì cô ấy nói là “Lời nói thoảng gió bay”, tức là tất cả chỉ là những lời ngoài miệng, sẽ mau chóng bay đi như làn gió. Nhưng chàng trai nào biết được những suy nghĩ bên trong của cô gái cùng với những tấm chân tình thiết tha không muốn bày tỏ ra bên ngoài. “Sao mà anh ngốc thế” – cô gái trách chàng trai vì anh không nhìn vào “Đôi mắt huyền đẫm lệ” của cô để thấy cô đang yếu mềm đến nhường nào. Người ta hay nói rằng “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, trong đôi mắt ta thấy được sự chân thật, sự chân thật ấy lấn át đi cái vùng trời đen tối kia, cô gái muốn chàng trai nhìn vào đôi mắt đẫm lệ của cô để thấy cảm xúc thật sự của cô, nhưng không…Có thể thấy rằng cô gái đang nhận lấy khổ đau, chua chát vì cho rằng chàng trai không hiểu cô. Nhưng làm sao chàng trai có thể hiểu khi mà người con gái ấy không chịu bộc lộ tình cảm chân thật của mình mà trái lại cứ mãi “xua đuổi” anh đi? Ta có thể thấy sự đối lập giữa suy nghĩ và hành động của cô gái trong bài thơ, có lẽ đó chính là nguyên cớ của bi kịch trong tình yêu. Không chỉ riêng chuyện tình cảm mà trong công việc, trong các mối quan hệ khác, nếu cứ vòng vo không chịu “nói thẳng nói thật” sẽ dẫn đến hậu quả mà chính bản thân ta cũng không mong muốn.
Nhà hiền triết người Ấn Độ Mahatma Gandhi từng có câu: “Hạnh phúc là khi những gì bạn nghĩ, những gì mà bạn nói và những gì mà bạn làm hòa quyện với nhau”. Con người là một thể thống nhất giữa tâm hồn và thể xác, con người chỉ có được hạnh phúc trọn vẹn khi đối diện với cảm xúc thật của mình, biết kết hợp hài hòa giữa tâm hồn và thể xác – “yêu thì bảo là yêu, ghét thì bảo là ghét”. Chớ lừa dối cảm xúc thật của mình, điều đó không những gây tổn thương cho người khác mà còn làm đau chính bạn. Như chính cô gái trong bài thơ trên, vì cứ mãi “vòng vo tam quốc” che giấu đi những tình cảm chân thành dành cho người mình thương để rồi chàng trai đã không thể thấu hiểu cho và vội rời đi. Để rồi cô gái ở lại cùng với mớ tâm tư ngổn ngang muôn nỗi, luyến tiếc không thôi rồi ôm lòng trách móc “Sao anh…”. Thực tế trong cuộc sống hiện nay, vẫn còn rất nhiều người như cô gái, họ không dám nói thẳng nói thật ra những suy nghĩ và những điều mà mình muốn làm. Tại sao vậy? Họ còn vướng bận điều gì chăng? Một nỗi sợ vô hình nào đó đang bao trùm lấy họ. Ta có thể lấy ví dụ từ một anh nhân viên văn phòng, anh nhìn thấy sếp vô tình phát hiện sếp của anh tham nhũng, ăn chặn tiền của công ty, nhưng vì thấp cổ bé họng nên anh không thể nào “nói thẳng nói thật”. Hay một cậu bé, hằng ngày vẫn thấy người dì của mình phun hóa chất độc hại lên thực phẩm để bảo quản rồi mang ra chợ bán cho người khác, cậu bé biết sai nhưng lại không dám nói với suy nghĩ vì đó là dì của mình hay do dì lớn hơn mình… Có rất rất nhiều những lí do, lí sự để họ trốn tránh. Chỉ khi sống thật với những mong muốn của bản thân, con người mới đủ can đảm để vượt qua mà nói ra sự thật.
“Thay vì tình yêu, thay vì tiền bạc, thay vì danh vọng, hãy cho tôi sự thật”, trên hết sự thật là điều mà bất cứ ai cũng muốn có. Bởi vì sự thật là đứa con của lòng tin, niềm hi vọng và là mầm móng của hạnh phúc. Vì thế đừng che giấu đi những sự thật bên trong mà phô diễn những thứ giả dối ra bên ngoài. Khi ta thốt ra những lời trái ngược với suy nghĩ, ấy là lúc bạn trở thành kẻ lừa dối, và người lừa dối đến cùng sẽ chẳng thể có được cuộc sống tốt đẹp một cách trọn vẹn. Nếu là cô gái ấy, đừng nói ra những lời đi ngược với cảm xúc bên trong, vì mình đau họ cũng đau khổ, nhưng người đau đớn trước hết là bản thân mình. Nếu chọn nói ra sự thật rằng “anh hãy ở lại với em”, “anh đừng đi” và “anh hãy nhìn vào đôi mắt đẫm lệ” này, thì chàng trai đã hiểu tâm trạng, mong muốn của cô gái hơn, và sẽ chẳng có cuộc chia ly nào cả! Nếu là anh nhân viên hay cậu bé thì chúng ta vẫn phải “nói thằng nói thật”, vì một ngày nào đó sự thật sẽ được mang ra ánh sáng. Khi biết dung hòa giữa suy nghĩ, lời nói và hành động thì con người sẽ không còn lừa mình, dối người nữa. Ta sẽ biết cách trân trọng cảm xúc thật của chính mình và quan tâm hơn đến cảm xúc của người khác, người khác vui và tất nhiên bản thân ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc, sẽ không còn những lần trách móc vô cớ của ta hay những luyến tiếc trong quá khứ. “Nói thẳng nói thật” còn là cách để ta rèn luyện nhân cách, dũng cảm đối diện với sự thật tôn trọng sự thật, ngay cả sự thật từ trong chính con người mình. Chớ nên e thẹn mà giấu đi xúc cảm chân thật của mình, ví như một nụ hồng vỗn dĩ đã đẹp nhưng khi nở lại càng đẹp hơn, khi con người ta chịu bày tỏ tình cảm chân thành nhất thì tự khắc họ cũng sẽ đẹp như một đóa hoa hồng nở rộ.
Nhưng có phải lúc nào chúng ta cũng phải thẳng thắn và thật lòng như vậy không? Đôi khi trong cuộc sống, có những trường hợp lời nói thẳng cùng với sự thật không mang lại hiệu quả tích cực như ta từng nghĩ. Ta vẫn thấy bác sĩ phải nói vòng vo với bệnh nhân, giấu đi căn bệnh hiểm nghèo của họ chỉ vì muốn họ lạc quan để sống tốt hết phần đời còn lại. Đôi lúc ta phải nói “con vẫn khỏe, con vẫn ổn” với cha mẹ, mặc dù đang cảm thấy kiệt sức, mệt mỏi vì áp lực công việc. Đó là những lúc mình buộc phải nói vòng vo, nói sai sự thật, vì nghĩ cho cảm xúc của người khác. Tuy đó vẫn là lừa người, gạt mình nhưng chí ít người khác sẽ cảm thấy an lòng và mình cũng có động lực để làm việc thật tốt. Thế mới biết đi thẳng không phải là cách đi dành cho mọi con đường mà ta đi, đôi lúc vẫn phải có những ngả rẽ quanh co. Và tất nhiên những điều đó chỉ chiếm một phần ít trong cuộc đời bạn, phần lớn vẫn phải nhường chỗ cho những điều thật lòng.
Một văn hào từng nói: “Đừng cố điểm tô lên khuôn mặt một đường nét nào khác, vì bạn vẫn là bạn”. Phải mang một cảm xúc giả cũng như việc mang một chiếc mặt nạ, đó là điều tàn nhẫn nhất dành cho bản thân. Như thế thì làm sao có thể sống tốt được, làm sao có thể mang niềm hạnh phúc đến với những người mà ta yêu quý. Trong những thời khắc cần phải nói thẳng nói thật thì ta hãy sống thật với những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của bản thân, mạnh mẽ đối diện với thực tại. Rồi mọi chuyện tốt đẹp sẽ đến với bạn. Mỗi chúng ta, hãy tự rèn luyện cho bản thân cách đối diện với những cảm xúc của mình và điều khiển chúng hài hòa với hành động, đừng suy nghĩ một nơi, nói một đằng nhưng lại làm một nẻo. Đồng thời lời nói cũng là vũ khí, nói thẳng nói thật đôi khi lại làm người khác tổn thương. Vì vậy, để không còn những nuối tiếc, những đau buồn, xót xa, ân hận chúng ta hãy “nói thẳng nói thật” một cách thông minh, có như vậy cuộc sống mới đơn giản và tốt đẹp hơn.
Silva Kaputikian là một nữ thi sĩ đầy tài năng, những câu thơ “Em bảo anh đi đi…” của bà đã làm sống dậy biết bao nhiêu kí ức của những thế hệ yêu mến Văn học. Những vần thơ của bà đã gửi đến câu chuyện tình yêu tuy đẹp nhưng đầy chua chát, xót xa. Đồng thời bài thơ còn gợi cho độc giả những chiêm nghiệm đáng quý về lối sống để không phải tiếc nuối, đau khổ. Sống có tốt hay không là do chính bản thân chúng ta lựa chọn nên đừng vội trách móc một ai khác. Hãy trân trọng những cảm xúc chân thành của bản thân và hãy quan tâm đến những cảm xúc của người khác. Việc điều khiển cảm xúc và dung hòa giữa thế giới nội tâm và hành động bên ngoài là yếu tố cốt lõi quyết định việc làm của bản thân có đi đến kết quả tốt nhất hay không. Vì vậy, tùy vào từng trường hợp mà nói thẳng nói thật có thật sự cần thiết để làm cho cuộc sống của chúng ta thật sự tốt đẹp hơn.

câu1
Biển đảo – Nơi mà hàng triệu người đang luôn bảo vệ. Biển đảo là một phần máu thịt của Tổ quốc, vì vậy có muôn vàn trái tim ngày đêm hướng về biển đảo, dành tình yêu cho những người lính biển cùng các chiến sĩ, các lực lượng ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo nước nhà. Những tưởng biển đảo bình yên với những con sóng nhẹ xô bờ, thế nhưng những ngày tháng này cả nước vẫn đang chống chịu với cơn sóng ngầm, bão giông, sóng gió chưa bao giờ lặng im trên mảnh đất xanh của Tổ quốc … Là một học sinh, bản thân em luôn mang trong tim tình yêu biển đảo, tình yêu và lòng khâm phục tới những người lính biển, những ngư dân chân chất nơi đảo xa. Có chút chạnh lòng, xót xa, lo lắng khi biển xanh dậy sóng,… em mong rằng biển đảo sẽ bình yên, rạng rỡ nụ cuoiw
Để bảo vệ chủ quyền biển đảo, trước hết thanh niên và thanh niên học sinh nói riêng phải xác định phải giữ biển đảo bằng tri thức về chủ quyền biển đảo. Chúng ta cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng chủ quyền biển đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… tìm hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề biển Đông. Thanh niên cần hưởng ứng và tích cực tham gia các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Thanh niên là hậu phương chỗ dựa tình cảm vững chắc đối với các lính biển đảo, bằng những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính hải đảo để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh thêm nghị lực để trông giữ biển đảo. Điều quan trọng, thanh niên cần không ngừng tu dưỡng phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kết để tạo nên sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó, mỗi người chúng ta cần sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể.
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn “các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước
Câu 2
Truyện ngắn “ Vợ nhặt” của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ” – mẹ anh Tràng- người “nhặt vợ”.Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”. Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”. Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ :”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm long thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ” xăm xắn quét tước nhà cửa”. Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần ( Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ. qua đó thể hiện rõ tấm lòng nhân hậu , bao dung, tình yêu thương con của bà cụ Tứ
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại khi viết về chủ đề người nông dân dưới xã hội cũ, đặc biệt là trong giai đoạn đau thương nhất của đất nước. Tuy nhiên trong tác phẩm nội dung chính mà tác giả muốn đề cập đến không phải là phản ánh, tố cáo hiện thực mà là tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người, cùng với sức mạnh của tình người, tình thân trong gia định đã trở thành cơ sở cho những khát vọng sống, niềm hy vọng và tin tưởng vào tương lai mãnh liệt ngay trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Bên cạnh hai nhân vật là Tràng và thị với những nét phẩm chất riêng, thì nhân vật cụ Tứ lại hiện lên với vẻ đẹp của tình mẫu tử, thương con sâu sắc.
Giữa nạn đói hoành hành năm 1945, hàng triệu đồng bào ta phải chịu chết đói, nhiều người phải lìa xa quê cha đất tổ đi tha hương cầu thực nơi xứ người, mẹ con bà cụ Tứ là một trong số đó. Bà cụ là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, có lẽ rằng cả cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả, bởi lẽ cả cuộc đời bà nằm trọn trong những ngày tháng đất nước chất chứa nhiều đau thương, lầm than dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Cả cuộc đời bà dành để kiếm từng đồng, từng hào chắt bóp nuôi con khôn lớn, cho đến khi tuổi đã gần đất xa trời, bà cụ tội nghiệp vẫn không được hưởng những ngày tháng sung sướng. Thay vào đó cụ vì già cả, ốm yếu phải sống dựa vào đứa con trai là anh Tràng với một công việc bấp bênh, bữa đói bữa no, và bên ngoài kia thần chết đang chực chờ những con người khốn khổ, cùng đường vì cái đói, trong đó có cả hai mẹ con bà cụ Tứ. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy tình mẫu tử của bà cụ lại càng hiện lên rõ rệt, cả đời làm lụng nuôi con khôn lớn, đến khi Tràng đã lớn khôn thì bà cụ lại sầu khổ vì không kiếm nổi cho con một tấm vợ, một người đàn bà đỡ đần hôm sớm. Tất cả chỉ tại bà nghèo quá, người ta cưới vợ khi có của ăn của để, khi ăn nên làm ra, còn bà lại chẳng có gì trong tay thành thử phải tội con bà cô đơn lẻ bóng. Mà có khi đến lúc mà mất đi thì đứa con trai tội nghiệp lại phải chịu cảnh côi cút một mình trên đời. Điều ấy làm bà cụ Tứ tủi phận nhiều lắm.
Cho đến một hôm thấy Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc, thế nhưng bà không hề tỏ ra bối rối mà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích, để cho Tràng có cơ hội được phân trần câu chuyện, chứ không lên tiếng trách móc. Đó là tấm lòng của một người mẹ trải đời, thương con bằng một tình thương dịu dàng, săn sóc. Rồi đến khi đã rõ sự mười mươi, bà cụ "hiểu ra bao nhiêu là cớ sự" rồi thì bà im lặng, những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ, một người vợ theo không. Nhưng không chần chừ quá lâu, bà cụ Tứ đã sống trên cuộc đời này ngót nghét vài chục năm trời đằng đẵng, có cái khổ, cái sự lạ nào mà bà không hiểu thấu. Đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng đã đến cái tuổi ấy lâu lắm rồi. Thế nhưng vừa nghĩ thông chuyện này thì bà cụ lại chợt nghĩ đến chuyện khác, bao nhiêu mối lo toan bỗng đổ dồn về lòng người mẹ già tội nghiệp, bà thương con "ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình", cũng lại tủi cho phận người làm mẹ, nhưng không thể lo nổi cho con một cái đám cưới, dựng vợ gả chồng tử tế cho con, để nó phải tự thân đi kiếm về một người vợ. Càng nghĩ bà lại càng lấy làm buồn lòng, xúc động "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt". Ấy rồi ăn ở với nhau như thế "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không", là những suy nghĩ quẩn quanh trong lòng bà cụ Tứ. Một người mẹ thương con không nề hà, trách mắng con mình tự tiện cưới gả, bởi bà hiểu phận mình và phận con, bà chỉ lo lắng mãi chuyện cuộc sống tương lai của hai vợ chồng Tràng, sợ con chịu khổ cực, rồi đương không lại liên lụy cả người khác nữa. Cái đám cưới chớp nhoáng khác thường này đem đến cho cụ niềm vui có dâu con, nhưng cũng lại mang đến cho bà biết bao nhiêu trăn trở, rối rắm. u cũng là lòng người mẹ yêu thương và suy nghĩ cho con trăm bề. Cuối cùng sau khi đã đi qua những xúc động, buồn tủi, bà cụ Tứ đã nhanh chóng vực lại tinh thần, thông suốt mọi vấn đề rằng "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?". Bà nhanh chóng thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của thị, đồng thời lòng bà đã dấy lên những tình cảm thương yêu người con dâu mới về. Bà nhẹ nhàng giục thị ngồi xuống, rồi nhỏ nhẹ khuyên giải, nhắc nhở động viên, vun vén vào cho hai vợ chồng Tràng, dặn dò họ cách ăn ở với nhau bằng những lời phấn khởi "Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?". Mặc dầu rằng trong lòng bà vẫn còn trăm mối tơ vò cảm xúc, nhưng không vì thế mà bà làm các con bối rối, mất vui, bà quyết giữ cho riêng bà những lo lắng, những buồn tủi để cho đôi tân nhân một sự động viên trước khi bước vào cuộc đời mới.
Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, căn nhà tàn tạ dưới đôi bàn tay của mẹ chồng nàng dâu bỗng trở nên sáng sủa lạ thường, thấy được những đức tính tốt đẹp, sự cẩn thận chu đáo của thị và cụ mừng lắm "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Trong bữa cơm sáng, dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ thương con, thương dâu, thành thử bà cố xua đi cái nghèo đói đang hiện hữu trước mắt cặp tân nhân bằng cách liên tục kể những chuyện vui, kế hoạch làm ăn, nuôi gà, mở ra trước mắt những tương lai tốt đẹp đầy hy vọng. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi "chè khoán", mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Dù vị của món ăn này vô cùng cùng khó ăn thế nhưng đó là cả tấm lòng của một người mẹ thương con, bà cụ tội nghiệp vì nghèo xác xơ không lấy gì để làm cỗ làm bàn, thế nên chỉ còn cách cố kiếm cho được ít cám về nấu làm món ăn đổi bữa. Ở một nét suy diễn sâu xa nào đó thì nồi cháo cám còn mang ý nghĩa là lời nhắc nhở của cụ Tứ dành cho các con về những ngày gian khó đang chờ đợi trước mắt, hy vọng rằng vợ chồng Tràng vẫn được vững lòng như ngày hôm nay, ăn nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng mà vẫn cảm thấy vui vẻ hạnh phúc.
Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa, cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù rằng bà sống trong cảnh nghèo khó tột cùng, thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành kim chỉ nam hướng vợ chồng Tràng đến một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.