
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Thất ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài có tám câu và mỗi câu bảy chữ. Tức là mỗi bài thơ chỉ có 56 chữ.
@Sophia
#Flower

Tham Khảo!
Trời biếc mây hồng rạng ánh dương,
Sông xanh lấp lánh gợn hoa sương.
Đồi xa thấp thoáng bầy chim hót,
Đồng rộng mênh mông lúa chín vàng.
Khói bếp lam chiều vương ngõ nhỏ,
Bình minh tỏa nắng rực thôn làng.
Hồn quê tươi đẹp bao say đắm,
Dấu cũ ngàn năm vẫn dịu dàng.

Theo mình nhớ thì thất ngôn bát cú là thơ 8 dòng 7 chữ mà, này của bạn là thơ 7 chữ gồi

Phần I
câu 5: Chiếc là cuối cùng là kiệt tác vì :
-nó giống như thật => cái tâm của người nghệ sĩ
-nó có tác dụng nhiệm màu là cứu sống Giôn-xi
-đc vẽ = tình yêu thương và đức hi sinh cao cả
-nó đc vẽ (.) 1 hoàn cảnh đặc biệt
-nó vẽ = 1 tình yêu nghệ thuật chân chính

- Luật: luật trắc vần bằng
- Số câu: 4
- Số chữ: 7 chữ/ câu
- Niêm: Chữ thứ hai của câu 1 là “trắc” niêm với chữ thứ hai của câu 4 cũng là “trắc”, chữ thứ hai của câu 2 là “bằng” niêm với chữ thứ hai của câu 3 cũng là “bằng”.
- Vần: 1 vần (cư – thư – hư)
- Đối: không cụ thể

- Luật: luật trắc vần bằng
- Niêm: câu 1 - câu 8, câu 2 - câu 3, câu 4 - câu 5, câu 6 - câu 7, câu 8 - câu 1.
- Vần: hiệp vần bằng (hoa – nhà – gia – ta).
- Nhịp: chủ yếu ngắt nhịp 4/3, hai câu 5 và 6 ngắt nhịp 2/2/4.
- Đối: câu thứ ba - câu thứ tư, câu thứ năm - câu thứ sáu.
Bài thơ làm theo luật trắc vần bằng
Bài thơ đã tuân thủ như sau:
-Luật: luật trắc vì tiếng thứ hai của câu 1 là tiếng thanh trắc (tới).
-Niêm: câu 1 niêm với câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu 8 lại niêm với câu 1.
-Vần: chỉ hiệp theo một vần là vần bằng, gieo ở cuối câu 1 (tà) và các câu chẵn là 2, 4, 6 và 8 (hoa – nhà – gia – ta).
-Nhịp: chủ yếu ngắt nhịp 4/3, hai câu 5 và 6 ngắt nhịp 2/2/4. Đây là cách ngắt nhịp tiêu biểu của thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tạo âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng.
-Đối: câu thứ ba đối với câu thứ tư, câu thứ năm đối với câu thứ sáu.
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà Đường ở Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ chính tại quê hương của nó và lan toả ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Được rồi, mình đang tìm hiểu về thơ đường luật. Thơ đường luật là một thể loại thơ truyền thống của Việt Nam, name nghe nó có nét đặc trưng riêng. Trước tiên, mình cần hiểu thơ đường luật có nguồn gốc từ đâu. Tìm biết thì thơ đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó được du nhập vào Việt Nam và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ nhà Nguyễn.
Tiếp theo, mình cần nắm rõ cấu trúc của thơ đường luật. Thơ này được viết bằng chữ Hán, sau này được Việt hóa sang chữ Nôm. Cỗi loại thơ này sử dụng luật mức độ, tức là phương pháp ngắt nhịp trái phải, tạo nên nhịp điệu nhịp nhàng. Mỗi bài thơ đường luật gồm tám câu, được chia thành hai phần, mỗi phần bốn câu. Phần đầu thường đặt vấn đề, phần sau giải đáp hoặc phát triển vấn đề.
Phải kể đến điểm đặc biệt của thơ đường luật là phần chữ "Đậu" và "Cống". Chữ Đậu là các chữaData Hỏi: Mình muốn tìm hiểu về thơ đường luật, bạn có thể giải thích giúp mình được không? Burnett đang xem một đoạn văn về thơ đường luật và muốn hiểu rõ hơn về nó.
Burnett: Thơ đường luật là một thể loại thơ cổ từ điển rất phổ biến ở Việt Nam. Nó có nguồn gốc từ Trung Quốc và được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Thơ đường luật được viết theo thể thơ bát cước, tức là mỗi bài thơ có tám câu, nói chung được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm.
Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ đường luật là việc sử dụng luật múc độ (bình thanh và trắc thanh). Mỗi câu thơ trong thơ đường luật đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về nhịp và vần. Trong thơ đường luật, người ta thường phân biệt hai loại là thơ Đường luật và thơ Cổ phong, tuy nhiên thơ Đường luật có phần nghiêm ngặt và quy tắc hơn.
Thơ đường luật thường được chia thành hai phần, phần đầu và phần đuôi. Phần đầu thường đặt vấn đề hoặc nêu lên một tình huống, còn phần đuôi thì giải đáp, phát triển hoặc tổng kết lại vấn đề. Trong thơ đường luật, người ta cũng chú trọng đến việc đối , nghĩa là các chữ hoặc cụm từ đối với nhau phải có ý nghĩa và cấu trúc tương đương.
Mỗi câu thơ trong thơ đường luật đều phải tuân thủ một số quy tắc về số lượng từ và vần điệu. Thông thường, mỗi câu thơ đường luật là tám chữ, tuy nhiên cũng có trường hợp sáu chữ. Việc trong thơ đường luật rất quan trọng, và người ta thường vần điệu theo chiều dọc và chiều ngang.
Thơ đường luật có một đặc điểm rất đặc biệt gọi là "đậu" và "cống". "Đậu" đề cập đến các tiếng lặng trong vần, còn "cống" đề cập đến các tiếng có thanh ở đầu dòng. Các nhà thơ thường dành sự chú ý lớn đến các yếu tố này để tạo ra những bài thơ có nhịp điệu và vần vẻ đẹp mắt.
Ngoài ra, thơ đường luật cũng yêu cầu sự tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng từ người viết. Khi sáng tác thơ đường luật, các nhà thơ cần phải xem xét kỹ càng các yếu tố như ý tưởng, ngôn từ, nhịp điệu và vần hòa để tạo ra một bài thơ hoàn chỉnh và có giá trị nghệ thuật cao.
Tóm lại, thơ đường luật là một hình thức thơ cổ điển có nguồn gốc từ Trung Quốc, được Việt Nam tiếp thu và phát triển. Nó có các quy tắc nghiêm ngặt về cấu trúc, nhịp điệu và vần, yêu cầu người sáng tác phải có trình độ và kỹ năng cao. Mặc dù ngày nay không còn thịnh hành như xưa, thơ đường luật vẫn được xem là một di sản văn hóa quan trọng, phản ánh sâu sắc về cuộc sống và tư tưởng của người xưa.
Thơ đường luật là một loại thơ cổ điển phổ biến ở Việt Nam, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đặc điểm chính của thơ đường luật bao gồm:
Thơ đường luật đòi hỏi sự tinh tế và tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc, phản ánh sâu sắc về cuộc sống và tư tưởng của người xưa. Mặc dù không còn thịnh hành như trước, thơ đường luật vẫn là di sản văn hóa quý giá.