Một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng phải kể đến Hồ Xuân Hương. Nhiều tác phẩm của bà có giá trị sâu sắc, trong đó có bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Ở hai câu thơ đầu, từ ngữ, hình ảnh thể hiện thái độ của tác giả khi đến đền Sầm Nghi Đống là “ghé mắt, trông ngang, kìa, cheo leo”. Những từ ngữ, hình ảnh này đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng cần có của một ngôi đền, thể hiện thái độ của tác giả là bất kính, xem thường và giễu cợt với kẻ xâm lược thất bại. Nguyên nhân của thái độ trên là do Sầm Nghi Đống là tướng giặc, theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.
Trong hai câu thơ cuối, tác giả đã đưa ra một giả định. Nếu Hồ Xuân Hương được làm phận trai, thì chắc chắn sự nghiệp anh hùng sẽ không ít ỏi, thất bại như Sầm Nghi Đống. Giả định cho thấy tác giả không chịu an phận, khao khát được lập nên sự nghiệp vẻ vang như đấng nam nhi. Bên cạnh đó, giả định này cũng bộc lộ sự coi thường, đối với sự nghiệp của viên tướng Sầm Nghi Đống.
Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với giọng điệu, cách nhìn đa chiều cho thấy một lối viết văn trào phúng tài hoa.
Đề đền Sầm Nghi Đống là một tác phẩm hay của Hồ Xuân Hương. Tác phẩm gửi gắm nhiều thông điệp giá trị.
Mẫu 2Tú Xương có nhiều bài thơ trào phúng. Một trong số đó phải kể đến Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (hay còn gọi là Vịnh khoa thi Hương).
Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ở hai câu đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Chế độ phong kiến vốn coi trọng việc tổ chức thi cử nhằm tuyển chọn ra nhân tài ra giúp vua. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta và nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Kì thi vẫn “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã cho bỏ trường thi ở Hà Nội đã bị bỏ. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Tiếp đến, tác giả miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên nhốn nháo, khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Hình ảnh “sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên ở thời xưa. Khi nhắc đến họ, chúng ta sẽ hình dung về những người thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Còn khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa” - nhốn nháo không khác gì nơi chợ búa. Một chi tiết nhỏ nhưng cũng phản ánh được hiện thực đất nước lúc bấy giờ, làm bật lên tiếng cười châm biếm sâu sắc.
Tiếp đến, Tú Xương tiếp tục tô đậm sự nhố nhăng của trường thi bằng việc khắc họa hình ảnh quan sứ và mụ đầm:
“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Việc tiếp đón những kẻ cướp nước chẳng biết lúc nào lại trở nên trang trọng nhưng khôi hài như vậy. Đặc biệt hơn cả là việc tác giả miêu tả hình ảnh mụ đầm. Theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì trọng nam khinh nữ. Phụ nữ không được những nơi trang nghiêm như trường thi. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” khiến ta thêm nức cười đó mà cũng thật xót xa. Qua chi tiết này, tác giả muốn làm nổi bật lên một xã hội phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mức nào.
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Ở hai câu kết, Tú Xương đã sử dụng câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước.
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một bài thơ trào phúng đặc sắc. Tác phẩm khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.