Viết đoạn văn diễn dịch biểu hiện tình cảm của mình với quê hương (khoảng 8 câu, có từ láy, phó từ, trợ từ, thán từ) Nhanh giúp em với em cần gấp ạ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tình cảm nhớ thương quê nhà da diết được in sâu trong kí ức của Bác Hồ và cho đến trước lúc Bác đi xa Bác vẫn day dứt khôn nguôi nỗi niềm thương nhớ vẫn đau đáu muốn về ngôi nhà cũ trước
tình cảm của bác hồ đối với quê hương: sâu nặng nghĩa tình thiêng liêng cao quý
tình cảm của BÁC HỒ :tha thiết , sâu đậm, thiêng lêng , cao quý, tình yêu quê hương tha thiết ngậm ngùi
Ngày 14-6-1957, Bác Hồ về thăm quê – làng Sen, Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An sau hơn 50 năm xa quê.
Nghe tin ngày mai Bác về, dân làng thao thức. Mọi người đều nghĩ tới ngày đón người con của quê hương nhưng cũng là vị Chủ tịch nước chắc phải thật long trọng.
Sáng ấy, Bác về với bộ quần áo ka ki và đôi dép cao su quen thuộc. Hình ảnh ấy xua tan cái cảm giác xa cách nửa thế kỉ, trái lại bà còn cảm thấy gần gũi, thân thiết lạ thường như mới gặp Bác ngày hôm qua vậy. Bác vẫy tay cất tiếng chào mọi người. Một chú mời Bác vào nhà tiếp khách mới xây ở gần nhà Bác, nhưng Bác ngăn lại:
– Tôi xa nhà, xa quê đã lâu, nay mới có dịp về, tôi phải về thăm nhà đã, còn đây là nhà tiếp khách để dành cho khách, tôi có phải là khách đâu.
Ngôi nhà Bác Hồ nhắc tới là ngôi nhà năm gian được xây dựng từ năm 1901. Chú cán bộ hướng dẫn Bác đi vào ngõ cạnh nhà ngang. Chiếc cổng tre gắn một tấm biển nhỏ: “Nhà Bác Hồ”. Bác cười vui:
– Đây là nhà cụ phó bảng (1) chứ có phải nhà Bác Hồ đâu!
Bác ngập ngừng trong giây lát rồi thong thả dọc theo hàng rào bước tiếp đến góc của mảnh vườn rồi rẽ ra tay phải dọc theo hàng rào râm bụt ở trước ngôi nhà. Bác nhẹ tay vạch rào râm bụt đi thẳng vào sân, vừa đi bác vừa nhắc chú cán bộ địa phương:
– Các chú mở lối đi đằng ấy sai rồi. Cổng cụ nhà phó bảng ở hướng đông này chứ!
Bác đứng giữa sân, nhìn quanh rồi lần lượt chỉ cho mọi người biết, trong vườn này ngày xưa chỗ nào là cây ổi, chỗ nào là cây thanh yên. Bác đi một lượt từ nhà trên xuống nhà dưới. Bác lại đi ra ngỗ, nhìn quanh chòm xóm, nhìn ra núi Chung, nơi xưa kia Bác thường chơi thả diều.
Một cụ già chờ Bác ở ngõ, Bác lên tiếng hỏi ngay:
– Có phải ông Điền không?
– Vâng… anh Côông (2)… Bác, Bác Hồ!
Bác nhanh nhẹn bước tới, nắm cánh tay ông cụ đang run run vì cảm động. Bác hỏỉ:
– Anh Điền, anh vẫn khỏe chứ!
Cụ già đó chính là ông Điền, người bạn thời niên thiếu của Bác, đã từng cùng nhau đi câu cá, đi thả diều. Hai tiếng “anh Điền” làm cho cụ già cảm động. Trước mắt cụ vẫn là người bạn năm xưa dù Bác đã trò thành Chủ tịch nước.
Bác nói với bà con dân làng:
“Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thì mừng mừng tủi tủi. Nhưng tôi không tủi, mà chỉ thấy mừng. Bởi vì khi tôi ra đi, nhân dân ta còn nò lệ, bị bọn phong kiến đế quốc đè đầu cưỡi cổ. Bây giờ tôi về thì đất nước đã được giải phóng, nhân dân ta đã được tự do”.
Nói rồi Bác đọc câu thơ:
Quê hương nghĩa nặng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
Bạn tham khảo bài này nha!
Ngày 14-6-1957 Bác Hồ về thăm quê, làng Sen, Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An sau hơn 50 năm xa quê.
Nghe tin ngày mai Bác về, dân làng thao thức. Mọi người đều nghĩ ngày đón người con của quê hương nhưng cũng là đón vị Chủ tịch nước chắc phải thật long trọng.
Sáng ấy, Bác về với bộ quần áo ka ki và đôi dép cao su quen thuộc. Hình ảnh ấy đã xua tan cái cảm giác xa cách nửa thế kỷ, trái lại bà con cảm thấy gần gũi, thân thiết lạ thường như mới gặp Bác ngày hôm qua vậy. Bác vẫy tay cất tiếng chào mọi người. Một chú mời Bác vào nhà tiếp khách mới xây ở gần nhà Bác, nhưng Bác ngăn lại:
-Tôi xa nhà, xa quê đã lâu, nay mới có dịp về, tôi phải về thăm nhà đã, còn đây là nhà tiếp khách để dành cho khách, tôi có phải là khách đâu!
Ngôi nhà mà Bác Hồ nhắc tới là ngôi nhà năm gian được xây dựng năm 1901. Chú cán bộ hướng dẫn Bác đi vào ngõ cạnh nhà ngang. Chiếc cổng tre gắn một tấm biển nhỏ: “nhà Bác Hồ'', Bác cười vui:
-Đây là nhà cụ phó bảng chứ có phải nhà Bác Hồ đâu!
Bác ngập ngừng trong giây lát rồi thong thả dọc theo hàng rào bước đến góc của mảnh vườn rồi rẽ tay phải dọc theo bờ rào râm bụt ở trước ngôi nhà chính. Bác nhẹ tay vạch rào râm bụt đi thẳng vào sân, vừa đi Bác vừa nhắc chú cán bộ địa phương:
-Các chú mở lối đi đằng này sai rồi. Cổng nhà cụ phó bảng ở hướng đông này chứ !
Bác đứng ở giữa sân, nhìn quanh rồi lần lượt chỉ cho mọi người biết, trong vườn này, ngày xưa chỗ nào là cây ổi, chỗ nào là cây thanh yên. Bác đi một lượt từ nhà trên xuống nhà dưới. Bác lại đi ra ngõ nhìn quanh chòm xóm,nhìn ra núi Chung nơi xưa kia Bác thường chơi thả diều.
Một cụ già chờ Bác ở ngõ, Bác lên tiếng hỏi ngay:
-Có phải ông Điền không?
-Vâng ...anh Côông...Bác, Bác Hồ !
Bác nhanh nhẹn bước tới, nắm lấy tay ông cụ đang run run vì cảm động, Bác hỏi:
-Anh Điền, anh vẫn khoẻ chứ?
Cụ già đó là ông Điền,người bạn thời niên thiếu của Bác, đã từng cùng nhau đi câu cá, đi thả diều. Hai tiếng "anh Điền" làm cho cụ già cảm động. Trước mặt cụ bây giờ vẫn là người bạn năm xưa dù Bác đã trở thành chủ tịch nước.
Bác nói với bà con dân làng:
"Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thì mừng mừng, tủi tủi. Nhưng tôi không thấy tủi, mà chỉ thấy mừng. Bởi vì khi tôi ra đi nhân dân ta còn nô lệ,bị bọn phong kiến, đế quốc đè đầu, cưỡi cổ. Bây giờ tôi về thì đất nước đã được giải phóng, nhân dân đã được tự do".
Nói rồi Bác đọc câu thơ:
Quê hương nghĩa trọng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
(Theo đồng chí Vũ Kỳ)
Thưa quý vị và các bạn đồng nghiệp! Qua câu chuyện Quê hương nghĩa nặng tình sâu, ta cảm nhận ở Bác một phong cách sống hết sức giản dị, đời thường, một con người luôn quan tâm đến người khác; và nổi bật hơn hết là tình cảm nhớ thương da diết quê nhà. Những Làng Chùa quê mẹ, làng Sen quê cha, đỉnh núi Chung, hàng rào râm bụt trước nhà, vườn cây ăn trái, tình bạn thả diều, câu cá thuở thiếu thời… Tất cả được in sâu trong kí ức của Người và cho đến trước lúc đi xa, Bác vẫn day dứt khôn nguôi nỗi niềm thương nhớ, vẫn đau đáu muốn nghe 1 câu hò, điệu ví quê hương…
“Quê hương nghĩa trọng tình cao. 50 năm ấy biết bao nhiêu tình”. Không chỉ là 50 năm mà là cả đời mình, Bác đã dành trọn để thấy đất nước được giải phóng, nhân dân được tự do và quê hương được thanh bình. Bôn ba khắp bốn bể 5 châu, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng những gì là hương vị quê hương, là bản sắc dân tộc, Bác luôn trân trọng, ghi nhớ và tự hào. Hòa nhập chứ không hòa tan, tư tưởng của Bác là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hội nhập cùng thế giới.
Kính thưa Quý vị ! Bác Hồ đã mãi mãi đi xa nhưng, tình yêu quê hương sâu nặng, lòng nhân ái bao la của Bác sẽ mãi là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn mỗi thế hệ người Việt, và soi đường để chúng ta tiếp bước theo Người.
Noi gương Bác, chúng ta quyết tâm xây dựng quê hương đất nước ngày càng phát triển, giàu đẹp, xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh…Tôi may mắn là một giáo viên gắn bó với sự nghiệp trồng người, tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác luôn là bài học sâu sắc giúp tôi tu dưỡng, hoàn thiện bản thân để nêu gương sáng cho học sinh. Trong mỗi bài giảng, mỗi giờ lên lớp tôi đều kết hợp vừa truyền thụ tri thức văn hóa vừa bồi dưỡng tâm hồn tình cảm cho các em; giáo dục cho các em biết yêu thương, quí trọng tình cảm gia đình, bạn bè, thầy cô, tình làng nghĩa xóm, biết trân trọng, gìn giữ những phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương, tự hào và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc; không chạy theo lối sống lai căng, xa lạ….Từ đó hình thành và bồi dưỡng cho các em tình yêu đất nước, tình yêu con người . Đó cũng chính là việc làm cụ thể, thiết thực để những bài học về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thực sự đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện thành công cuộc vận động “Học và làm theo tấm gương đạo đức HCM” do bộ chính trị phát động.
Bài thơ nói lên tình cảm gắn bó vô cùng sâu sắc của Bác Hồ đối với quê hương. Xa quê từ những năm Người còn là một chàng thanh niên, cho đến ngày là Chủ tịch của đất nước nhưng Bác vẫn nhớ rõ, nhớ rất rõ bà con ở quê nhà. Bác vẫn nhớ con đường dẫn vào nhà nội, nhớ ở nơi đây có cây ổi ngọt sai quả... Bác vẫn nhớ ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Người đã được sinh ra và lớn lên... Bác vẫn nhớ, nhớ tất cả...
Bác yêu quê hương tha thiết, sâu nặng. Dù xa quê rất lâu nhưng người vẫn luôn nhớ tất cả những gì gần gũi, thân thuộc nhất của quê nhà và dành tình cảm đặc biệt cho nhân dân ở quê hương.
Đáp án
Mở bài
Giới thiệu về nỗi nhớ, tình yêu quê hương tha thiết của tác giả Tế Hanh. Từ đó nêu lên tình yêu quê hương của bản thân em. (1 điểm)
Dẫn dắt được vấn đề nghị luận: Tình yêu quê hương đất nước của thế hệ trẻ
Thân bài
Giải thích khái niệm tình yêu quê hương đất nước (0,5 điểm)
- Là tình yêu của chúng ta với quê hương, không ngừng nỗ lực để xây dựng và phát triển đất nước. Đó là tình cảm gần gũi nhưng cũng là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp của người
- Tình cảm thương nhớ quê hương của tác giả Tế Hanh (0,5 điểm)
+ Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực trong lòng tác giả
+ Nhà thơ tái hiện lại bức tranh quê hương tươi đẹp, sống động về vùng quê ven biển miền Trung
- Tình yêu quê hương của mình gắn liền với tình yêu gia đình, tình yêu bạn bè, người thân… những điều bình dị gắn với cuộc sống thường nhật (1 điểm)
- Nêu biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương
- Nêu trách nhiệm bản thân
Tình yêu của thế hệ trẻ ngày nay được thể hiện:
- Không ngừng học tập, trau dồi kiến thức, kĩ năng trở thành người làm chủ đất nước, tương lai
- Xây dựng ý thức về độc lập dân tộc
KB: Khẳng định tình yêu quê hương đất nước là tình cảm đẹp, nâng đỡ con người (1 điểm)
Trình bày rõ ràng, khoa học, bố cục mạch lạc, biết cách vận dụng thao tác lập luận (0,5 điểm)
THAM KHẢO :
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương – hai tiếng gọi giản dị và thân thương nhưng chứa đựng biết bao tình cảm. Có thể nói, mỗi con người đều có quê hương. Đó chính là nơi chúng ta sinh ra, lớn lên và gắn bó. Thế nên, mỗi lần xa quê, ta nhớ quê biết chừng nào. Chính cái miền quê miền biển, đầy nắng và gió, đã nhức nhối trong lòng Tế Hanh bao nỗi nhớ cồn cào. Nỗi nhớ và tình yêu quê hương đó, được khắc họa rõ nét trong bài thơ Quê Hương của ông.
Tế Hanh – người con của làng chài Quảng Ngãi. Quê ông không phải là một miền trung du với những rặng chè ngút ngàn tầm mắt, không phải là nơi phố thị với những tòa nhà cao tầng đồ sộ. Quê ông chỉ là một miền quê làng chài ven biển, nhưng ông tự hào biết bao về làng quê của mình:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.”
Hai câu thơ mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về nghề nghiệp (làm nghề chài lưới) và vị trí địa lý (gần sông, cách biển nửa ngày) của quê hương Tế Hanh. Lời giới thiệu ngắn gọn, chân thành, giản dị nhưng đầy đủ, thể hiện được niềm tự hào của nhà thơ về quê hương mình.
Nghề chài lưới, một công việc lao động bình thường, nhưng qua con mắt của một thi sĩ yêu quê và đang phải xa quê, cái công việc ấy hiện lên thật đẹp đẽ biết bao:
“Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang”
Trong khung cảnh bình minh của một buổi sớm mai tuyệt đẹp: sớm mai hồng, với trời trong, gió nhẹ. Dân làng chài là những chàng trai khỏe mạnh, trai tráng đưa con thuyền của mình ra khơi. Bằng biện pháp tu từ so sánh: như con tuấn mã và sử dụng các động từ mạnh: hăng, phăng, vượt Tế Hanh đã miêu tả cảnh con thuyền ra khơi với một khí thế thật dũng mãnh, oai hùng. Con thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh, chuẩn bị xông ra chiến trường để tiêu diệt kẻ thù. Và trong cái nỗi nhớ da diết về cảnh người dân chài đi đánh cá, hình ảnh cánh buồn là tâm điểm mà Tế Hanh miêu tả một cách đẹp nhất:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Cánh buồm trắng được nhà thơ so sánh như mảnh hồn làng. Đó chính là biểu tượng, là linh hồn của làng chài. Mỗi lần ra khơi, cánh buồm là vật quan trọng, dắt đường, chỉ lối cho con thuyền. Thế nhưng với Tế Hanh, cánh buồm có vị trí đặc biệt hơn thế nữa. Nó như thâu góp vào trong mình biết bao giông bão của sóng gió để con thuyền luôn trở về bình an. Nó còn mang trong mình biết bao yêu thương, mong ngóng, đợi chợ của những người mẹ, người chị, người con ở đất liền dành cho những người ra khơi. Tế Hanh đã rất thành công khi so sánh một vật hữu hình, cụ thể với một hình ảnh lãng mạn, trừu tượng. Hình ảnh con thuyền với cánh buồm trắng vì vậy mà trở nên đẹp đẽ hơn, lãng mạn hơn.
Sau những ngày tháng bôn ba trên biển khơi, con thuyền trở về, trong sự chào đón hân hoan, vui mừng của người dân quê:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Những câu thơ trên, đã miêu tả được cái không khí sinh hoạt của người dân làng chài. Đó là một khung cảnh tươi vui, ồn ào, tấp nập, tràn trề nhựa sống. Có thể nói, Tế Hanh như đang được đắm chìm vào cái khung cảnh sinh hoạt nơi bến đỗ ấy. Nhờ công ơn trời đất, mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, những chàng trai đi đánh cá nay đã trở về với rất nhiều thành quả lao động. Hình ảnh những con cá tươi ngon thân bạc trắng ấy, chính là kết quả của sự cần cù, chịu khó, chịu khổ và của niềm yêu thích lao động chân chính.
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Với hình ảnh này, Tế Hanh đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam một bức tượng đài về người lao động Việt Nam thật đặc sắc.
Những câu thơ miêu tả chiếc thuyền “im” trên bến cũng rất độc đáo. Thi nhân dường như cảm nhận được cả sự mệt nhọc say sưa của con thuyền sau những ngày ra khơi. Bằng biện pháp nhân hóa, nhà thơ đã biến một hình ảnh vô tri, vô giác trở thành một cá thể có hồn, có thần. Con thuyền như đang cảm nhận được những mặn mòi của muối biển đang thấm sâu vào da thịt mình. Với nghệ thuật độc đáo này, chúng ta thấy con thuyền đã trở thành một phần không thể thiếu của làng chài.
Xa quê, chắc hẳn không ai không nhớ quê. Là một người con của vùng quê miền biển, khi xa quê, Tế Hanh nhớ tới: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền và mùi nồng mặn của biển cả. Trong những nỗi nhớ ấy, thì da diết hơn cả, phải kể đến nỗi nhớ về cái vị mặn mòi của biển khơi, mà chỉ những ai sinh ra ở vùng quê ấy mới có thể cảm nhận được.
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. Và khiến cho bất cứ ai, dù đang ở nơi đâu, cũng sẽ thêm yêu quê hương mình hơn.
bạn tick cho mk đi rùi mk giả