Ngôn ngữ lập trình trực quan không phân biệt dữ liệu đầu vào là dạng số hay dạng chữ. Vì vậy, chương trình được lập trong Nhiệm vụ 2 cho kết quả sai khi thực hiện với bọ dữ liệu ở tình huống 8 (Bảng 16.2). Em hãy sửa chương trình để có thể xác thực dữ liệu và bỏ qua dữ liệu dạng chữ trong bộ dữ liệu đầu vào.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sự khác biệt cơ bản giữa cách truy vấn dữ liệu thông qua ngôn ngữ truy vấn và lập trình trực tiếp là: Ngôn ngữ truy vấn được thiết kế đặc biệt để truy vấn dữ liệu trong cơ sở dữ liệu một cách hiệu quả và đơn giản, trong khi lập trình trực tiếp cần phải sử dụng ngôn ngữ lập trình để thực hiện các truy vấn dữ liệu và đảm bảo tính đúng đắn của chúng. Sử dụng ngôn ngữ truy vấn có thể giúp thực thi các truy vấn nhanh hơn và dễ dàng bảo trì hơn trong các ứng dụng liên tục sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, lập trình trực tiếp cũng còn được sử dụng để thực hiện các truy vấn dữ liệu phức tạp hoặc kết hợp các tác vụ khác nhau trong ứng dụng.
Tham khảo!
a) Lỗi được phát hiện khi thực hiện chương trình với bộ dữ liệu Hình 6b: a = 0, b = 2 và Hình 6c: a = 0, b = 0.
b) Câu lệnh trực tiếp tạo ra lỗi là:
Câu lệnh liên quan đến lỗi là:
c) Nguyên nhân gây ra lỗi này là: lỗi logic vì phép chia cho 0 là không xác định.
Dựa trên kết quả của 10 bộ dữ liệu kiểm thử, với 9 lần đúng và 1 lần sai, không thể kết luận chương trình đó là đúng hoặc sai một cách chắc chắn. Kết quả này chỉ cho thấy chương trình có khả năng hoạt động chính xác trên hầu hết các trường hợp, nhưng vẫn có một trường hợp đặc biệt nào đó mà chương trình không xử lý đúng.
Việc phát hiện được một lỗi trong 1 lần kiểm thử không đồng nghĩa với việc chương trình đó là sai. Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả sai trong lần kiểm thử đó, chẳng hạn như dữ liệu đầu vào đặc biệt, điều kiện biên, hay một vấn đề trong việc cấu hình môi trường kiểm thử.
Vì vậy, để đưa ra đánh giá chính xác về tính đúng của chương trình, cần phải tiếp tục kiểm thử với nhiều bộ dữ liệu kiểm thử khác nhau, đánh giá kết quả và phân tích sâu hơn về nguyên nhân của lỗi nếu có. Sau đó, cần tiến hành sửa chữa lỗi và thực hiện kiểm thử lại để đảm bảo tính đúng đắn của chương trình trước khi có thể kết luận chương trình là đúng hoặc sai.
THAM KHẢO!
Ta cần sử dụng một hàm (isinstance()) để kiểm tra dữ liệu đầu vào. Đầu tiên, chúng ta kiểm tra xem các số có phải một danh sách không. Nếu chương trình báo lỗi và kết thúc. Tiếp theo, kiểm tra từng phần tử trong danh sách xem chúng có phải số nguyên (int) hay không. Nếu không phải, chương trình sẽ phông báo lỗi và kết thúc