đề bài: em hãy tóm tắt truyền thuyết Yết Kiêu
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong khi những trang chính sử còn ghi chép quá sơ lược về Yết Kiêu thì những truyền ngôn, truyền kỳ từ trong quá khứ được bảo lưu qua hình thức truyền miệng dân gian mà người đời sau nhận ra được những cống hiến của vị danh tướng này. Chúng tôi đã sưu tầm được 8 bản truyền thuyết trong vùng về danh tướng Yết Kiêu.
Truyền thuyết thứ nhất: Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, là con trai ông Phạm Hữu Hiệu, làm nghề đánh cá. Nhà nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Hữu Thế đã phải lăn lộn trên sông nước kiếm ăn, nuôi mẹ. Một hôm, về Lôi Động, ông đi gánh nước, thấy hai con trâu húc nhau chí mạng. Vốn có sức khỏe, Hữu Thế hạ đôi thùng gánh nước, dùng đòn ống vụt vài miếng thượng hạ. Chỗ đất trâu đứng tìm thấy hai chiếc lông, đó là lông trâu thần. Cầm lên nhìn, tự nhiên Hữu Thế thấy máu bừng lên mặt. Ông chạy ra ao, lao xuống nước, nước rẽ đôi. Hữu Thế vội nuốt vào bụng. Từ đó thân thể cường tráng, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng.
Truyền thuyết thứ hai: Tục truyền Yết Kiêu có sức mạnh đẩy ngã trâu, vác hai vai hai cối đá thủng, cầm thêm hai tay hai cối giò, đi từ trên bờ xuống ao bùn rồi lại từ ao bùn dễ dàng lên bờ, đập hết sân lúa trong một buổi tối. Làng Quát xưa có một cây cổ thụ đã hai trăm năm. Một cơn bão bay cối đá từ bờ rãnh bên này sang bờ rãnh bên kia, làm đổ cây trên một đống lớn. Dân làng hô hào các phe giáp ra phát cành đào gốc đem về chống một gian đình đã siêu vẹo. Yết Kiêu lúc ấy ở trong đám dân sắp đi làm, ra giữa sân đình, giơ hai tay lên trời, nói lớn: “Thưa dân làng, tôi xin một mình nhận công việc của các giáp. Chỉ xin cho một số dao to với ít người thu dọn cành lá, tôi sẽ làm xong trong buổi sáng nay”.
Trong chốc lát, tay ôm dao, Yết Kiêu phát cành lớn như phát củ chuối. Một lát cành lá đã ngổn ngang, các người phụ việc chưa kịp dọn hết thì chàng đã tay mai tay cuốc đào phăng phăng đất ở gốc cây. Hai tay lên gân với những bắp thịt cuồn cuộn, chàng đưa thân cây lên vai chạy một mạch về cửa đình.
Khi chàng bơi, không ai theo kịp. Bơi ngửa thì cả ngày cả đêm như nằm chơi. Chàng lặn và đi ở lòng sông làm việc như làm ở trên cạn. Người thời bấy giờ thường gọi chàng là con vua Thủy Tề hoặc con thần rái cá.
Truyền thuyết thứ ba: Tài năng Hữu Thế ngày một nổi tiếng. Trần Hưng Đạo trọng dụng và đặt tên là Yết Kiêu. Cùng với Dã Tượng, Yết Kiêu lập nhiều công lớn. Trong trận Bãi Tân, Hưng Đạo Vương dùng thuyền, có hai gia nô của ông là Yết Kiêu và Dã Tượng cùng đi. Đến Bãi Tân, Trần Quốc Tuấn giao cho Yết Kiêu ở lại giữ thuyền, còn Dã Tượng thì theo hộ vệ. Quân của Trần Quốc Tuấn không sao cản nổi bước tiến của quân giặc, trở lại đường cũ thì có phần nguy hiểm nên Trần Quốc Tuấn định theo đường núi mà rút lui. Dã Tượng thấy vậy liền thưa: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không chịu rời thuyền”. Trần Quốc Tuấn trở lại Bãi Tân, quả thấy Yết Kiêu đang cắm thuyền đợi, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến. Vừa mừng vừa cảm động, Trần Quốc Tuấn nói: “Chim hồng hộc bay được cao và xa là nhờ sáu cái trụ xương cánh, nếu không khác gì chim thường”.
Truyền thuyết thứ tư: Bấy giờ, giặc Nguyên kéo mấy trăm chiếc thuyền theo đường biển vào đánh cướp Đại Việt. Yết Kiêu không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền. Thuyền giặc bị nước biển chảy vào, chìm ngay. Quân giặc sợ lắm. Lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì. Sau giặc chăng lưới vây bắt được Yết Kiêu. Chúng hỏi ông: “Nước mày có bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?”. Ông đáp: “Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay, họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt”. Bọn giặc hí hửng, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước. Quân giặc đành trơ mắt nhìn nhau căm tức.
Truyền thuyết thứ năm: Một lần Yết Kiêu bị giặc bắt. Bất ngờ ông xuống tấn khiến thuyền lật úp. Quân giặc chờ mãi không thấy ông nổi lên, rà đáy sông, buông lưới, không thấy gì. Về sau ông kể lúc đó, có con cá thần lượn qua, ông leo lên mình cá, bơi nhanh khỏi vòng vây.
Truyền thuyết thứ sáu: Lần khác, ngồi trên chiếc thuyền bị bao vây bởi quân giặc, Yết Kiêu nghĩ ra một kế. Ông ngửa mặt nhìn lên trời và bảo: “Các anh về trước nhé”. Tướng giặc vô cùng ngạc nhiên bởi lúc đó trên trời chỉ có đôi hạc hồng. Hắn tra hỏi thì được trả lời Yết Kiêu là em của đôi hạc đó và hai anh em đang nói chuyện với nhau. Bọn giặc yêu cầu Yết Kiêu gọi anh xuống. Yết Kiêu ra điều kiện phải cởi trói thì mới gọi. Tướng giặc đồng ý và nhân cơ hội đó, Yết Kiêu lặn một hơi xuống nước.
Truyền thuyết thứ bảy: Yết Kiêu đi sứ, được vua Nguyên phục tài, qúy đức. Vua Nguyên bỏ cả hiềm khích, cho công chúa và chục nàng hầu đến hầu hạ. Vua lệnh cho công chúa là phải có con với tướng nhà Trần và có thể thì giữ chân Yết Kiêu lại. Công chúa đem lòng yêu thương. Khi Yết Kiêu mãn hạn ra về, nàng công chúa ngày ngày mặt mày ủ ê, sầu thảm rồi ốm nặng. Nhà vua lo lắng đưa công chúa sang Đại Việt, cầu hôn Yết Kiêu. Sang đến nơi thì hay tin Yết Kiêu tạ thế, công chúa liền quyên sinh trên đất Đại Việt. Yết Kiêu hay tin, thương người con gái xứ Tàu nhẹ dạ. Đời sau, ở đền Quát, dân làng cũng lấy đá tạc chín nàng hầu và hai vệ sĩ để thờ vọng hương hồn nàng công chúa đã trao mối chân tình với Yết Kiêu.
Truyền thuyết thứ tám: Một lần, Yết Kiêu đem một toán quân đến mai phục trong bụi lau sậy ven bờ sông, nơi đoàn thuyền giặc Nguyên đậu. Rồi một mình ông dùng chiếc khoan nhọn, khoan các đáy thuyền của chúng. Cứ khoan xong một lỗ, ông lại lấy giẻ đút nút dùng dây một đầu buộc vào nút giẻ đầu kia giòng lên bờ. Chờ cho giặc ngủ say, Yết Kiêu giật các đầu dây, nước ùa vào thuyền, thuyền bị đắm. Bọn giặc tỉnh dậy nhốn nháo. Yết Kiêu cho hiệu nổi quân reo. Còn ông nhảy lên thuyền túm cổ tên Phạm Nhan lôi tuột xuống sông, kéo hắn vào bờ. Trận đánh kết thúc, nghĩa quân toàn thắng, Phạm Nhan bị chém đầu tại bãi bơi Kiếp Bạc. Vua Trần thăng cho Yết Kiêu chức "Đệ nhất bộ đô soái thủy quân".
Khi ban bổng lộc, Vua hỏi: "Tướng Yết Kiêu muốn bổng lộc gì?" Ông thưa: "Điều thứ nhất thần xin là bệ hạ ban phúc cho dân ấp Hạ Bì được tự do hành nghề chài lưới từ đầu sông ở thượng nguồn tới cửa sông giáp biển. Thứ hai, bệ hạ ban ơn cho mỗi hộ khi hành nghề ở đâu cũng được sử dụng 3 thước đất phơi chài lưới đồ nghề và kéo sợi quay tơ, ngoài ra thần không xin gì thêm".
Vua Trần khen Yết Kiêu là người nhân nghĩa và y ban. Từ đó, dân làng Hạ Bì làm nghề chài lưới cứ theo các triền sông trải dài ra sinh sống. Hiện nay, dân các Hà còn sinh cơ lập nghiệp ở khắp nơi tạo ra thành nhiều Hà phụ, thuộc một số xã theo các sông, lạch.
Những truyền thuyết lưu truyền trong dân gian đã tô đậm tài năng sông nước phi thường của Yết Kiêu. Nhân dân luôn nhớ đến một vị võ tướng oai phong với chiếc dùi cầm chắc trong tay – thứ vũ khí lợi hại được Yết Kiêu dùng để lập công khi đánh trận trên sông nước và một tuổi thơ hiếu động.
Trong đền Quát hiện còn một số hiện vật quí mà chính những cụ già trong làng cho biết chúng gắn bó mật thiết với cuộc đời Yết Kiêu như mõ cáo, mõ cá… Mỗi một đồ thờ cúng đều có một tích đi kèm để giải thích.
Trong những dịp lễ hội, người làng Hạ Bì có dịp ôn lại bài học luyện quân rèn tài của vị thủy tướng quân. Lễ hội chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cao đẹp thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc.
Nét đặc biệt nhất và hấp dẫn nhất của lễ hội đền Quát là hội bơi chải: Ngày bơi chải, nhân dân thập phương kéo về đông vui, nhộn nhịp, màu cờ sắc áo rực rỡ, trong đình ngoài đền rộn rã tiếng chào hát, nhiều trò vui sôi động cả vùng như: đi cầu thùm, đấu vật, cờ bỏi, chọi gà, tam cúc điếm… thu hút đông đảo nhân dân tham dự.
Với hiện trạng di tích và các truyền thuyết lưu truyền nơi đây cùng các sinh hoạt lễ hội được nhân dân bảo tồn, lễ hội đền Quát được đánh giá là một trong những lễ hội cổ truyền tiêu biểu của Hải Dương.
ua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam
Truyền thuyết Yết Kiêu liên quan đến sự thật lịch sử về người anh hùng yết Kiêu
“Âm... ầm...ầm”. Từng đợt sóng biển đập vào vách đá gợi cho em nhớ đến cuộc giao tranh ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Đây là một truyện rất hay mà em luôn nhớ từ thuở ấu thơ. Câu chuyện này đã được bà ngoại em kể vào những đêm trăng sáng khi mọi người ngồi xúm xít trước sân nhà.
Bà ke rằng vào thuở xa xưa, thời vua Hùng Vương thứ mười tám, vua có một người con gái tên là Mị Nương sắc đẹp như tiên giáng trần. Nhà vua rấtl thương con nên muốn tìm gả cho nàng một người chồng tài ba, tuấn tú
Lệnh vua vừa ban ra, các chàng trai từ khắp nơi đều đổ về cầu hôn. Trong số đó, nổi bật nhất là hai chàng trai Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh dời núi Ba Vì. Chàng vừa tuấn tú lại vừa tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh; chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Còn Thủy Tinh ở tận miền biển Đông, tài giỏi cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Cả hai cùng ngang sức ngang tài và đều xứng đáng với Mị Nương.
Vua Hùng rất băn khoăn không biết chọn ai, bỏ ai. Vua liền triệu tập các quan vào bàn bạc nhưng cũng chẳng có ai nghĩ ra một kế gì hay. Cuối cùng, vua nghĩ ra được một cách và cho vời hai chàng trai vào mà phán rằng:
- Ta đều vừa ý cả hai người nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy vào rạng sáng ngày mai ai mang lễ vật đến trước thì ta gả con gái cho. Lễ cưới phải có đủ: một trăm ván cơm nếp, hai trăm tệp bánh chưng voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Mới sáng sớm tinh mơ, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước. Vua Hùng giữ đúng lời hứa liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh và hai vợ chồng đưa nhau về núi.
Thủy Tinh mang lễ vật đến sau nên không cưới được vợ. Tức giận vô cùng, Thủy Tinh liền đùng đùng mang quân đuổi theo quyết cướp dược Mị Nương. Khi thây vợ chồng Sơn Tinh lên núi, Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành giông bão, sấm sét rung chuyển cả đất trời, dâng nưởc sông lên cuồn cuộn. Nước ngập lúa ngập đồng, ngập nhà, ngập cửa..
Sơn Tinh không nao núng một chút nào. Một mặt, chàng dùng phép bốc cao từng quả đồi, dời từng dẫy núi để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi núi mọc cao lên bấy nhiêu. Mặt khác, chàng tung ra đội quân sư tử, voi, cọp báo... để chống lại đoàn quân thuồng luồng, cá, tôm, cua... của Thủy Tinh. Hai bên đánh nhau ác liệt hết ngày này qua ngày khác ròng rã suốt mấy tháng liền. Thiệt hại người và của vô số kể. Cuối cùng, Thủy Tinh cũng đành thua trận rút quân về biển.
Với lòng hận thù triền miên nên từ đó về sau không năm nào Thủy Tinh không làm mưa bão, dâng nước lên để đánh Sơn Tinh, gây nên cảnh lụt lội, phá hoại nhà cửa, mùa màng của nước ta. Song, lần nào cũng vậy, Thủy Tinh lua thua trận và đành phải rút lui.
Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh thật ác liệt phải không các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra hằng năm suốt mùa mưa ở khăp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, truyện còn nói lên ước mơ của ngươi dân muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao dộng của mình. Các cháu có hiểu không?”
k mk nhé
Xưa, có hai vợ chồng già sống nhân hậu mà vẫn chưa có con. Ngọc Hoàng cho Thái tử xuống trần đầu thai làm con hai vợ chồng già ấy. Đó là Thạch Sanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ, sống ở gốc đa và được các thiên tướng dạy cho võ nghệ. Lí Thông dỗ Thạch Sanh kết nghĩa anh em với mình. Năm ấy, Lí Thông phải đi nộp mạng cho Chằn Tinh. Hắn đã lừa Thạch Sanh đi thế mạng với lí do đi canh miếu thờ. Thach Sanh đã giết chết Chằn Tinh, đốt xác nó và được cây cung vàng. Thế nhưng, chàng bị Lí Thông cướp công, lại trở về gốc đa sống. Lí Thông đem đầu chằn tinh vào nộp cho vua để lĩnh thưởng, được vua phong làm Quận công.
Nhà vua có công chúa đến tuổi kén chồng. Trong ngày hội lớn, công chúa bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Lí Thông lại nhờ Thạch Sanh giết đại bàng cứu công chúa, Thạch Sanh xuống hang, giao chiến với Đại bàng và cứu được công chúa nhưng sau khi đưa được công chúa lên khỏi hang. Lí Thông đã lấp hang để giết Thạch Sanh. Chàng lại cứu được con vua Thuỷ Tề và được vua Thuỷ Tề tặng cho cây đàn thần.
Từ khi được cứu về, công chúa không cười không nói. Hồn chằn tinh và đại bàng trả thù, vu vạ cho Thạch Sanh khiến chàng bị nhốt vào ngục. Chàng đánh đàn, công chúa nghe thấy liền khỏi bệnh câm. Thạch Sanh được vua cho gọi lên. Chàng kể lại rõ mọi việc. Vua giao cho chàng xử tội mẹ con Lí Thông. Được chàng tha bổng nhưng hai mẹ con trên đường về đã bị sét đánh chết, hoá kiếp thành bọ hung.
Thái tử 18 nước chư hầu vì không được vua gả con gái cho, đã kéo quân sang đánh nước ta. Thạch Sanh đem đàn ra gảy và lui được quân các nước chư hầu. Chàng cũng đã hào phóng cho họ ăn cơm đựng trong niêu cơm thần.
Năm ấy, giặc Nguyên – Mông xâm lược nước Đại Việt ta. Thế giặc rất mạnh, đi đến đâu chúng đều gây nên biết bao tội ác. Chàng trai Yết Kiêu làm nghề đánh cá ven sông, nổi tiếng về tài bơi lặn, liền xin với cha già cho chàng nhập quân đội để diệt giặc cứu dân. Người cha buồn rầu bảo:
– Mẹ con mất sớm, cha bây giờ tàn tật, không làm gì được. Nay con lại ra đi.
Nghe cha nói vậy, Yết Kiêu rất đau lòng, chàng nghẹn ngào:
– Cha ơi, nhưng nước mất thì nhà tan. Làm trai, con không thể ngồi nhà nhìn quân giặc tàn phá đất nước mình. Con sẽ nhờ cô bác trông nom, chăm sóc cha.
Cha chàng vội nói:
– Cha hiểu chứ. Giờ đây việc đánh giặc cứu nước là cấp bách. Con cứ đi đi! Đừng lo lắng cho cha.
Yết Kiêu từ biệt cha già. Chàng đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần Nhân Tông. Được nhà vua tiếp đãi, Yết Kiêu trình bày kế hoạch đánh giặc của mình:
– Hạ thần chỉ xin bệ hạ một chiếc dùi sắt để dùi thủng chiến thuyền của giặc, vì hạ thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.
Nhà vua gật đầu đồng ý và mĩm cười hỏi Yết Kiêu:
– Ngươi là dân thường mà phi thường. Ai đã dạy ngươi được như thế?
Yết Kiêu bèn quỳ xuống trước mặt nhà vua và kiêu hãnh trả lời:
– Muôn tâu bệ hạ, người đó là cha của hạ thần! Cha của hạ thần được ông của hạ thần dạy bảo.
Nhà vua hỏi tiếp:
– Ai dạy ông của nhà ngươi?
– Vì căm thù giặc sâu sắc và noi gương người xưa mà ông của hạ thần tự học lấy.
Cảm động trước truyền thống yêu nước của nhân dân, nhà vua liền đỡ Yết Kiêu đứng dậy và truyền lệnh cho binh lính thực hiện như yêu cầu của chàng.
Hồi ấy, giặc Nguyên mang 100 thuyền lớn theo đường biển vào cướp nước ta. Chúng làm nhiều điều bạo ngược khiến lòng dân oán hận vô cùng.
Ở một làng chài nọ, có một người tên là Yết Kiêu làm nghề đánh cá. Yết Kiêu có sức khỏe hơn người, không ai địch nổi. Đặc biệt, Yết Kiêu có tài lội nước. Mỗi lần xuống nước bắt cá Yết Kiêu có thể ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên. Thấy bọn giặc nghênh ngang, làm nhiều điều tàn ác, Yết Kiêu rất căm thù chúng và quyết định lên kinh đô Thăng Long để yết kiến vua Trần Nhân Tông, xin nhà vua cho đi đánh giặc. Nhà vua mừng lắm bèn bảo Yết Kiêu hãy chọn một loại vũ khí, nhưng Yết Kiêu chỉ xin vua một chiếc dùi sắt. Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên. Thấy thế Yết Kiêu liền thưa: "Để thần dùi thủng thuyền của giặc". Nhà vua lại hỏi tiếp: "Ai dạy ngươi được như thế?". Yết Kiêu kính cẩn tâu đó là cha, ông thần. Vua lại gặng hỏi ai dạy ông chàng. Yết Kiêu tâu: "Vì căm thù giặc và noi gương người xưa mà ông của thần tự học lấy".
Trong lúc Yết Kiêu lên yết kiến nhà vua thì ở quê nhà cha của Yết Kiêu đang bùi ngùi nhớ con. ông nhớ lại câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường. Yết Kiêu nói với cha: "Nước mất nhà tan con không thể ngồi im nhìn cảnh quân giặc tàn sát đồng bào ta. Cha ở nhà nhớ bảo trọng, khi nào hết giặc con sẽ trữ về". Người cha nói với Yết Kiêu: "Con cứ yên tâm mà ra đi giết giặc, cha ở nhà còn có bà con lối xóm giúp đỡ, cha chờ tin thắng trận của con".