Vị đại tướng nào của Quân Đội nhân dân Việt Nam trực tiếp Tổng chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ vào năm 1954
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án A
Chiến dịch Điện Biên Phủ là trận công kiên lớn nhất – đánh trực diện vào vị trí kiên cố của giặc. Lần đầu ta phối hợp đánh hiệp đồng binh chủng với sự tham tham của lực lượng bộ binh và pháo binh mạnh; trong trận đánh này, pháo binh đánh mở màn, áp chế địch quân, mở cửa và tạo thời cơ để bộ binh tiến lên tiêu diệt địch; là bất ngờ lớn nhất ta giành cho địch góp phần to lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất, "chưa từng có" ở Đông Dương.
=> Đánh trực diện vào vị trí kiên cố của địch là một trong những nét nổi bật về nghệ thuật quân sự của quân đội Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chú ý:
- Đáp án B: là phương châm chiến dịch trong giai đoạn đầu.
- Đáp án C: là phương châm chiến dịch trong giai đoạn sau.
Đáp án A
Chiến dịch Điện Biên Phủ là trận công kiên lớn nhất – đánh trực diện vào vị trí kiên cố của giặc. Lần đầu ta phối hợp đánh hiệp đồng binh chủng với sự tham tham của lực lượng bộ binh và pháo binh mạnh; trong trận đánh này, pháo binh đánh mở màn, áp chế địch quân, mở cửa và tạo thời cơ để bộ binh tiến lên tiêu diệt địch; là bất ngờ lớn nhất ta giành cho địch góp phần to lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất, "chưa từng có" ở Đông Dương.
=> Đánh trực diện vào vị trí kiên cố của địch là một trong những nét nổi bật về nghệ thuật quân sự của quân đội Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chú ý:
- Đáp án B: là phương châm chiến dịch trong giai đoạn đầu.
- Đáp án C: là phương châm chiến dịch trong giai đoạn sau
Đáp án B
- Trong chiến dịch Biên giới (1950): ta chủ trương tấn công địch ở Đông Khê thuộc tỉnh Cao Bằng, đây là địa bàn vùng núi cách xa hậu phương của ta nên trong quá trình diễn ra chiến dịch cũng gặp khó khăn về công tác hậu cần.
- Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954): Điện Biên Phủ nằm lọt giữa vùng rừng núi trùng điệp của Tây Bắc, cách xa vùng hậu phương từ 500 - 700 km -> vấn đề hậu cần cho một chiến dịch lớn. Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đã được khắc phục bởi tinh thần phục vụ tiền tuyến của nhân dân ta trong các đội dân công hỏa tuyến.
=> Xa hậu phương của ta nên công tác hậu cần khó khăn là khó khăn chung của quân và nhân dân Việt Nam khi mở chiến dịch Biên giới thu - đông (1950) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
Đáp án B
- Trong chiến dịch Biên giới (1950): ta chủ trương tấn công địch ở Đông Khê thuộc tỉnh Cao Bằng, đây là địa bàn vùng núi cách xa hậu phương của ta nên trong quá trình diễn ra chiến dịch cũng gặp khó khăn về công tác hậu cần.
- Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954): Điện Biên Phủ nằm lọt giữa vùng rừng núi trùng điệp của Tây Bắc, cách xa vùng hậu phương từ 500 - 700 km -> vấn đề hậu cần cho một chiến dịch lớn. Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đã được khắc phục bởi tinh thần phục vụ tiền tuyến của nhân dân ta trong các đội dân công hỏa tuyến.
=> Xa hậu phương của ta nên công tác hậu cần khó khăn là khó khăn chung củ quân và nhân dân Việt Nam khi mở chiến dịch Biên giới thu - đông (1950) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
Chọn đáp án B.
- Trong chiến dịch Biên giới (1950): ta chủ trương tấn công địch ở Đông Khê thuộc tỉnh Cao Bằng, đây là địa bàn vùng núi cách xa hậu phương của ta nên trong quá trình diễn ra chiến dịch cũng gặp khó khăn về công tác hậu cần.
- Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954): Điện Biên Phủ nằm lọt giữa vùng rừng núi trùng điệp của Tây Bắc, cách xa vùng hậu phương từ 500 - 700 km -> vấn đề hậu cần cho một chiến dịch lớn. Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đã được khắc phục bởi tinh thần phục vụ tiền tuyến của nhân dân ta trong các đội dân công hỏa tuyến.
=> Xa hậu phương của ta nên công tác hậu cần khó khăn là khó khăn chung củ quân và nhân dân Việt Nam khi mở chiến dịch Biên giới thu - đông (1950) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
Đáp án C
Điểm chung về hoạt động quân sự của quân dân Việt Nam trong các chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, Biên giới thu - đông năm 1950 và Điện Biên Phủ năm 1954 là có sự kết hợp giữa chiến trường chính và vùng sau lưng địch
Đáp án D
- Chiến dịch Việt Bắc (1947): Hội nghị cán bộ Trung ương đã được triệu tập và họp từ ngày 3 đến 6-4-1947 đã ra nghị quyết để định hướng và thống nhất các hoạt động lãnh đạo kháng chiến của Đảng. Trong điều kiện hiện thời, Đảng chủ trương kháng chiến lâu dài để vừa đánh, vừa cố gắng bồi bổ vũ khí cho bộ đội, chuyển thế yếu thành thế mạnh. Chiến thuật quân sự sử dụng chủ yếu là du kích vận động chiến. Chiến thuật này là cách đánh của toàn dân, không phải của riêng bộ đội, nên phải phát động phong trào dân quân và võ trang toàn dân, mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở sau lưng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng bằng; áp dụng chiến thuật tiêu thổ một cách rộng rãi.
- Chiến dịch Biên giới (1950): Ngày 28/8/1949, sư đoàn chủ lực đầu tiên - đại đoàn 308 ra đời, tiếp đó đầu năm 1950 đại đoàn 304 được thành lập. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời, ta chủ trương “Phải từng bước đẩy vận động chiến tiến tới”.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954): Thực tế diễn biến trên chiến trường Đông Dương cuối năm 1953 đầu năm 1954 đã chứng minh những nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và tác chiến của Bộ Chính trị là đúng đắn, thể hiện tài thao lược của Ban lãnh đạo tối cao trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh cách mạng. Thắng lợi to lớn của năm đòn tiến công chiến lược trên mặt trận chính diện cùng với sự phát triển của chiến tranh du kích vùng sau lưng địch đã tạo điều kiện cho bộ đội ta tác chiến chiến dịch quy mô lớn thắng lợi, đỉnh cao là trận quyết chiến chiến luợc Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
=> Điểm chung về hoạt động quân sự của quân dân Việt Nam trong các chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, Biên giới thu - đông năm 1950 và Điện Biên Phủ năm 1954 là có sự kết hợp giữa chiến trường chính và sau lưng địch
Đại tướng Võ Nguyên Giáp