cảm nhận của em trong bài chiều tối
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tk
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xây hết lò than đã rực hồng
Nếu như nói về cảnh thì sự chuyển cảnh trong Câu thơ này cũng rất đỗi tự nhiên. Khi đêm đã buông xuống, tấm màn đen của nó đã bao trùm lên toàn cảnh vật thì nhà thơ chỉ có thể hướng tầm nhìn về phía có ánh sáng. Đó chính là ánh sáng soi tỏ hình ảnh một cô thôn nữ xay ngô để chuẩn bị bữa cơm chiều.
Ở câu thơ thứ ba, người dịch đã thêm chữ “tối” Không có trong nguyên tác. Từ nay không sai nhưng lại làm cái tinh tế của bài thơ mất mát đi ít nhiều. Nó vừa làm lộ ý thơ, vừa khiến cho nội dung kém đi sự gợi mở.
Lê Chí Viễn còn phát hiện ra thêm một điểm vô cùng tinh vi ở câu thơ này. Đảo ngữ “ma bao túc” “bao túc mà hoàn” khiến cho câu thơ trở nên thật hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi tình theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay ngô cuối của người thiếu nữ, quay mãi, quay mãi và đến khi cô ấy phải dừng lại thì lo than đã rực Hồng, nó dịch lên một thứ ánh sáng tuyệt đẹp. Thứ ánh sáng tỏa ra từ phía lò than kia không chỉ là thứ ánh sáng thắp lên trong đêm tối tăm, mịt mù mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng mà Bác vẫn luôn luôn tin tưởng và gửi gắm. Đọc thơ Bác, buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng có lẽ là vì vậy.
Hai câu thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người đều mỏi mệt trước giờ khách tàn lụi nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin háo hức, mong chờ qua hình ảnh đúng lửa hồng. Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ sáng rực lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người được hiện lên ở trung tâm của bức tranh được nhà thơ vẽ ra đã tỏa sáng, xua tan cái cô quạnh, cái mệt mỏi của cảnh chiều nơi núi rừng.
Nguyễn Du đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Chân lý ấy khá ứng với hai câu thơ đầu tiên. Nhưng ở hai câu thơ này, ta phải nhấn mạnh rằng do cảnh buồn nên người cũng muốn buồn theo. Tuy vậy, ở hai câu thơ sau thì niềm vui đã quay trở lại. Sự hy vọng, niềm tin thông qua hình ảnh gọi lửa hồng đã khiến cho bài thơ trở nên vui tươi và dạo dực hơn hẳn…
Mới biết mọi niềm vui, nỗi buồn của Bác hồ đều gắn bó với niềm vui, nỗi buồn của đất nước. Quyền hành nỗi bất hạnh của riêng mình, của tù ngục, khổ đau, Bác vẫn đau đầu lo cho nước nhà…
Bạn tham khảo nhé:
Hai câu thơ cuối bài Chiều tối sử dụng bút pháp cổ điển từ "Hồng" chính là nhãn tự của bài thơ. nó là hình ảnh bị dị nhưng vô cùng chân thực được tác giả ghi lại một cách tinh tế, sâu sắc. Hình ảnh con người hiện lên khi đang làm việc gợi lên sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp giản dị của cô gái khi đang làm việc thể hiện một cuộc sống thanh bình, yên vui của núi rừng sơn cước. Hình ảnh bếp lửa lò than rực hồng mang lại cho bài thơ một luồng sinh khí mới, nó làm cho cả bài thơ như sáng bừng lên, ấm áp sự sống mới tươi vui, bình yên của nhịp sống con người. Đồng thời nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời trong thơ của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh bị tù đày mệt mỏi, bởi sự áp giải của chế độ Tưởng Giới Thạch nhưng Bác không hề nao núng hay tỏ thái độ lo lắng sợ hãi.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều!
***
Hướng dẫn lập dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu chung về số phận của người phụ nữ xưa: chịu rất nhiều bất hạnh, không được quyền quyết định cuộc đời của mình.
- Có nhiều bài ca dao, tục ngữ nói về thân phận của người phụ nữ, trong đó nổi bật là bài ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
II. Thân bài
- Ý nghĩa của bài ca dao:
+ Lời giãi bày của một người phụ nữ vì hoàn cảnh mà phải lấy chồng xa. Những lúc tủi hờn chỉ biết ôm nỗi buồn mà “trông về quê mẹ”.
- Thời gian:
+ Bài ca dao diễn tả tâm trạng của người phụ nữ vào buổi xế chiều.
+ Buổi xế chiều: thời điểm cuối ngày thường gợi nhiều suy nghĩ và thường gợi những nỗi buồn vương vấn. Đây cũng là thời điểm người phụ nữ tự đối diện với lòng mình.
+ “Chiều chiều”: không phải là một buổi chiều cụ thể nào cả mà đó là chỉ thời gian chung chung, giờ khắc của ngày tàn.
- Không gian:
+ “Ngõ sau”: Gợi đến thân phận hèn mọn của phận dâu tôi đòi.
+ “Quê mẹ”: một nơi xa, nơi có những người thân trong gia đình, nơi chứa đựng những yêu thương, những sẻ chia ấm lòng người.
+ “Chín chiều”: là chín bề, nhiều bề.
+ Nỗi đau chín chiều là nỗi đau quặn thắt, không nói nên lời, âm ỉ, dai dẳng làm héo hon lòng người.
⇒ Thời gian “chiều chiều” kết hợp với không gian “ngõ sau” gợi lên tình cảnh tội nghiệp của người phụ nữ: nhỏ bé, thui thủi một mình, đáng thương.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng từ ngữ có kết cấu vòng tròn đối xứng chiều chiều – chín chiều góp phần gợi tả bi kịch của đời người phụ nữ: họ không bao giờ thoát khỏi các vòng khổ đau của định mệnh.
⇒ Tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ: nặng nề, đau xót hơn.
III. Kết bài
- Bài ca dao có sức lay động những nỗi nhớ quê sâu kín của con người.
- Là lời tố cáo những tư tưởng phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào những khổ đau của cuộc đời.
Học tốt !!!
#Min
Người phụ nữ xưa phải chịu rất nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Họ không có quyền quyết định cho cuộc sống của mình mà phải phụ thuộc vào người chồng người cha. Có rất nhiều câu ca dao tục ngữ nói về thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ, trong đó nổi bật là câu ca dao:
"Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều."
Câu ca dao là lời giãi bày tâm sự của một người phụ nữ vì hoàn cảnh mà phải lấy chồng xa. Do ảnh hưởng của những quan niệm phong kiến, người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được quyền bình đẳng, phải hứng chịu những đau đớn trong cuộc đời. Việc lấy chồng là việc hệ trọng của đời người nhưng người phụ nữ thời đó phải chấp nhận cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, thậm chí phải lấy chồng lấy vợ từ khi lên năm lên ba. Sống trong nhà chồng người con gái đi lấy chồng xa thường phải chịu nhiều nỗi tủi hờn, đau khổ. Những lúc tủi phận, những lúc nhớ nhà nàng chỉ còn biết thui thủi ôm nỗi buồn mà “trông về quê mẹ”.
Câu ca dao diễn tả tâm trạng người phụ nữ vào buổi chiều. Đó là thời điểm cuối ngày thường gợi nhiều suy nghĩ và thường gợi những nỗi buồn vương vất. Dân gian dùng từ láy Chiều chiều cho ta biết rằng không phải một buổi chiều mà chiều nào cũng vậy, khi thời gian bước vào cái giây khắc của ngày tàn, người phụ nữ lại “đứng ra ngõ sau” để “trông về quê mẹ” mà “ruột đau chín chiều”. Bước vào chiều tà không gian đã nhập nhoạng tối, người phụ nữ lại chọn địa điểm “ngõ sau” rất kín đáo để tự mình đối diện với lòng mình.
“Ngõ sau” chẳng những gợi đến thân phận hèn mọn của phận dâu tôi mà kết hợp với thời gian chiều tối nó còn tạo ra một góc riêng cho người phụ nữ tội nghiệp ấy: một cái góc vừa tối vừa hẹp. Trong khung cảnh ảm đạm, hình ảnh người phụ nữ cô đơn thui thủi một mình càng nhỏ bé, đáng thương hơn nữa. Nàng lặng lẽ “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Nhắc đến “mẹ” là nhắc đến điểm tựa tâm hồn của người con. Nhắc đến “quê mẹ” là nhắc đến những yêu thương, những đồng cảm, những sẻ chia làm ấm lòng người. Đặc biệt, từ “trông” không chỉ có nghĩa là nhìn mà còn có ý nghĩa là trông ngóng. Người phụ nữ “trông về quê mẹ” còn là đang khao khát những tình cảm ấm nồng, còn đang mong ngóng ngày trở về quê mẹ với những người thân yêu nhất của mình. Trong hoàn cảnh bèo dạt mây trôi nơi đất khách quê người, nàng trông về nơi ấy mà ruột đau chín chiều. Chín chiều là “chín bề”, là “nhiều bề”. Nỗi đau “chín chiều” là nỗi đau quặn thắt không nói nên lời, nó âm ỉ, nó dai dẳng làm mòn làm héo con người. Cách sử dụng từ ngữ có kết cấu vòng tròn đối xứng chiều chiều – chín chiều đã góp phần gợi tả bi kịch đời người phụ nữ: họ chẳng bao giờ thoát khỏi cái vòng trong khổ đau định mệnh. Tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ ấy vì thế mà càng nặng nề, đau xót hơn.
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau…” là bài ca dao có sức lay động những miền thương miền nhớ dù là sâu kín nhất của con người. Và vì thế, bài ca dao mang trong mình một tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Chỉ có hai câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu xa, câu ca dao đã lột tả được hết tâm trạng của người phụ nữ khi phải đi lấy chồng xa, tủi phận cô đơn, nhớ quê nhà, nhớ mẹ, bởi ở nơi đó không có chỗ nào là chỗ dựa cho người con gái bất hạnh ấy. Câu ca dao như một lời tố cáo cái xã hội phong kiến thối nát, đẩy người phụ nữ mềm yếu xuống bước đường cùng của cuộc sống.
Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện ở niềm vui, sự thích thú trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng: ngủ trong hang tối, ăn cháo bẹ rau măng, bàn làm việc là tảng đá chông chênh. Người chiến sĩ ở đây cảm thấy: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang ở đây là sang trọng, tức là người chiến sĩ không những cảm thấy dồi dào, giàu có về vật chất mà còn cảm thấy sự cao quý, đáng kính trọng. Đó là sự sang trọng, giàu có về mặt tinh thần của những cuộc đời làm cách mạng lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sống, không hề bị những khó khăn, gian khổ làm cho khuất phục. Đó cũng là cái giàu sang của một nhà thơ luôn tìm thấy sự hài hòa với tự nhiên, thư thái với thiên nhiên. Đó là tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sự nghiệp cách mạng gian khổ nhưng sẽ giành thắng lợi. Tinh thần bài thơ được kết tinh và tỏa sáng ở từ sang cuối bài thơ.Hình tượng người chiến sĩ được khắc họa chân thực, sinh động với những gian khổ và thiếu thốn về vật chất nhưng lại giàu có về tinh thần (thể hiện trong giọng diệu vui đùa, tinh thần lạc quan, phong thái ung dung). Tầm vóc người chiến sĩ trở nên lớn lao, tư thế trở nên uy nghi trong cuộc đời cách mạng cao đẹp. Bài thơ làm nổi bật hình tượng, cốt cách cao quý của lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại.
a, Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín
- Thấu hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, thấu hiểu nỗi lòng riêng tư của người bạn lính, chia sẻ niềm thương nhớ, nặng lòng với quê hương bạn
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Hiểu được sự hy sinh thầm lặng, sự nhớ thương mong ngóng của những người ở hậu phương
+ Hình ảnh hoán dụ giếng nước, gốc đa gợi lên hình ảnh về quê hương, người thân nơi hậu phương của người lính
+ Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, nỗi nhớ nhà, cùng nhau vượt lên nỗi nhớ đó để chiến đấu
b, Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương
- Họ chia sẻ những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”
+ Tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, bao giờ người lính cũng nhìn bạn nói về bạn trước khi nói tới mình.
+ Cách nói thể hiện nét đẹp thương người như thể thương thân, trọng người hơn mình
+ Tình đồng chí, tri kỉ đã giúp họ vượt lên trên buốt giá
- Họ quên mình để động viên nhau, cùng nhau vượt lên trên buốt giá và những bàn tay động viên, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Yêu thương nhau bằng cả tấm lòng chân thành sâu nặng với những cử chỉ nghĩa tình
- Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan, sức mạnh của tình đồng đội “miệng cười buốt giá”
→ Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ
c, Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí
- Tình đồng chí được tôi luyện khi họ cùng nhau sát cánh thực hiện nhiệm vụ đánh giặc
- Chính ở nơi thử thách, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết gần kề tình đồng chí thực sự thiêng liêng cao đẹp
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
- Trên nền khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng khắc nghiệt, những người lính với tư thế chủ động “chờ” giặc thật hào hùng.
- Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết
- Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ: đây là sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn
+ Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy trăng treo lơ lửng nơi họng súng
+ Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm - đây là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng là biểu tượng thanh mát, yên bình.
- Hình ảnh này kết hợp, cô đọng vẻ đẹp tâm hồn người lính với sự tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, khiến người lính ngay cả trong hiểm nguy vẫn bình thản, lãng mạn.
a. Học sinh chép đúng bài thơ.
b.
- Đó là sự vận động tất yếu hướng tới cái tốt đẹp, tươi sáng. Sự vận động từ 2 câu đầu tới 2 câu sau: cảnh vật (cánh chim về rừng, chòm mây trôi về phía trời xa, chiều dần sang tối với ánh lửa hồng, từ lạnh lẽo âm u đến ấm áp, bừng sáng...), lòng người (từ nỗi buồn đén niềm vui...).
- Sự vận động đó cho thấy niềm lạc quan yêu đời, niềm tin vào tương lai tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng.
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại đáng kính của cả dân tộc, ngôi sao Khuê soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi đến thành công thắng lợi. Không những thế, Người còn là danh nhân văn hóa với sự nghiệp văn học đồ sộ, thành công trên nhiều thể loại khác nhau. Nổi tiếng và tiêu biểu nhất phải kể đến tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù) hoàn thành từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Giữa chốn gông cùm xiềng xích những áng thơ vẫn cất lên ngời ngời tư tưởng cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó “Mộ” (Chiều tối) chính là bài thơ mang giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo.
Mở đầu bài thơ là một bức tranh thiên nhiên yên bình, êm ả:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Bằng ngòi bút đặc tả của mình, Hồ Chí Minh đã tạo ra khung cảnh có sự chuyển động của cánh chim và chòm mây vào cái độ chiều tà dần buông. “Quyện điểu” nghĩa là “chim mỏi”, “tầm” nghĩa là “tìm”. Vào thời khắc mặt trời xuống núi, ngày dần tàn, mọi sự vật đều cần một nơi chốn nghỉ ngơi. Cánh chim sau một ngày mải miết rong ruổi kiếm ăn cũng không phải ngoại lệ. Đến loài vật cũng biết mệt mỏi để tìm chốn ngủ thì hẳn con người cũng đã kiệt quệ sức lực khi phải di chuyển cả một chặng đường tù đày dài liên tục. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ, chim cố gắng bay về với tổ ấm của nó, còn người tù chính trị mà chính là tác giả ở đây chỉ có thể đi từ nhà lao này đến nhà lao khác. Nếu chim có động lực thúc đẩy cất đôi cánh bay đi thì mỗi bước chân di chuyển của người tù ở đây gần như là vô nghĩa.
Con người chẳng thể tự do như cánh chim, ngước lên bầu trời mà bỗng thấy cô đơn, trống trải như “Cô vân mạn mạn độ thiên không” – “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Trên bầu trời chiều cao và rộng ấy, có lẻ loi một áng mây chiều.
Từ xưa đến nay, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, có lẽ trong lòng người thi nhân lúc bấy giờ có cái sầu, có cái bi nhưng tuyệt nhiên lại không thấy cất một lời nào ai oán than vãn. Tất cả chỉ có sự thả hồn tận hưởng khung cảnh như người nghệ sĩ ngắm nhìn bức tranh tuyệt mĩ tạo hóa đã dệt nên vào cuối ngày. Nó cho thấy một tình yêu thiên nhiên đến rạo rực. Chắc hẳn nhìn cánh “chim mỏi về rừng”, nhìn “chòm ấy trôi nhẹ”, trong tâm tưởng của Hồ Chí Minh ít nhiều cũng khao khát sự tự do, muốn được trở về với quê hương, đất nước.
Có mấy ai giữa cảnh lao từ vẫn có phong thái ung dung, tinh lần lạc quan thả hồn chắp nên những vần thơ tuyệt vời như vậy. Hai câu thơ tuy ngắn nhưng lại và sự kết hợp tổng hòa, nhuần nhuyễn giữa nét cổ điển và hiện đại. Ở đây, Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, không có một chữ nào nhắc đến “chiều” nhưng người đọc vẫn có thể hình dung một cách rõ nét về không gian chiều tà cũng như nỗi lòng mà tác giả muốn gửi gắm.
Cánh chim hay mây vốn không phải đề tài xa lạ trong những tác phẩm thi cổ xưa. Tuy nhiên khi đưa vào thơ Hồ Chí Minh vẫn tràn đầy sức sống, một cánh chim nhỏ chao liệng đủ để làm chủ cả một không gian bao la rộng lớn.
Hai câu sau, hình ảnh con người xuất hiện bình dị và tràn đầy sức sống
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng)
Bức tranh thiên nhiên dần khép lại, nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người nơi sơn cước. Không gian chiều tà giờ đây đã bị bóng tối đã lấp đầy phủ kín không gian.
Trên đoạn đường bị giải đi, Hồ Chí Minh bắt gặp hình ảnh “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”, không phải là giai nhân yểu điệu, mà là cô thôn nữ đang hăng say uyển chuyển với công việc của mình. Một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn và tràn đầy sức sống trong lao động thường ngày. Hiếm có nhà thơ nào lại tinh tế để khám phá ra được sức hấp dẫn trong những điều bình dị nhất như vậy. Nguyên tác, Hồ Chí Minh dùng từ “sơn thôn thiếu nữ” thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ vẻ đẹp của cô gái. Nhưng rất tiếc ở bản dịch đã bị chuyển thành “Cô em xóm núi”, ít nhiều bị mất đi tính hình tượng mà tác giả cố ý xây dựng. Cấu trúc điệp liên hoàn được sử dụng trong câu 3 và 4: “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn” tạo ra sự nhịp nhàng, uyển chuyển khéo léo. Đặc biệt cái hồn cả cả bài thơ đọng lại trong nhãn tự “hồng”. Hình ảnh “lô dĩ hồng” bừng lên thứ ánh sáng để xua tan đi bóng tối và sự mệt mỏi, sưởi ấm không gian vẫn đang hiu quạnh vắng vẻ ở hai câu thơ đầu tiên. Một chữ “hồng” ấy thôi cũng đủ để thổi bùng lên bao nhiêu ý chí, khát vọng và quyết tâm của người thi nhân – người chiến sĩ cách mạng trong cảnh cầm lao.
Hai câu thơ cuối của bài thơ “Chiều tối” đã tô điểm bức tranh trở nên hoàn hảo, có cảnh, có người. Con người hiện lên không nhỏ bé, cô lập mà thật kỳ vĩ, làm chủ cả không gian, thời gian, lấp đầy khoảng trống thiên nhiên đem đến. Ý thơ còn bộc lộ được sức sống mãnh liệt cũng như tinh thần sắt đá của tác giả Hồ Chí Minh.
“Mộ” (Chiều tối) tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Giữa gông cùm và xiềng xích, tâm hồn người thi nhân vẫn cất lên tiếng lòng tha thiết với cảnh vật, con người hữu tình. Bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy động tả tĩnh, lấy mây điểm trăng cùng sự kết hợp cổ điển xen lẫn hiện đại đã tạo nên một bài thơ xuất sắc cả về nội dung và giá trị nghệ thuật.