K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ăn trầu chọn lấy cau khô
Trèo lên Ba Dội (Rọi) có cô bán hàng
Cô bán hàng lòng cô buồn bã
Bóng xế chiều bóng ngả về tây
Đợi cô ba bẩy hai mốt năm nay


Ăn trầu mà có vỏ chay
Vôi kia có lạt (nhạt) cũng cay được mồm


Ăn trầu phải mở trầu ra
Phòng có thuốc độc hay là mặn vôi


Ăn trầu thì bỏ quên vôi
Ăn cau, bỏ hạt, nàng ơi hỡi nàng!


Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn?


Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu


Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng ?
- Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời


Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu
Vợ cả pha nước têm trầu chàng xơi
Vợ hai trải chiếu, chia bài
Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong.
Vợ tư trải chiếu quạt mùng
Vợ năm thức dậy trong lòng xót xạ
Chè thang, cháo đậu bưng ra
Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh.


Đêm qua em nằm nhà ngoài
Em têm mười một, mười hai miếng trầu
Chờ chàng chẳng thấy chàng đâu
Để cau long hạt, để trầu long vôi
Trầu long vôi ắt đà trầu nhạt
Cau long hạt ắt đà trầu già
Mình không lấy ta ắt đà mình thiệt
Ta không lấy mình, ta biết lấy ai ?
Răng đen cũng có khi phai
Má hồng khi nhạt, tóc dài khi thưa
Tình đây tính đấy cũng vừa
Chàng còn kén chọn, lọc lừa ai hơn ?


Đêm qua mây kéo đen dầm
Thấy hai người ấy thì thầm với nhau
Tưởng rằng tính toán trầu cau
Ai hay tình vụn với nhau bao giờ!
Cước chú: tính toán Trầu cau là tính toán cưới hỏi

Đêm qua trăng sáng mập mờ
Em đi gánh nước tình cờ gặp anh
Vào vườn trẩy quả cau xanh
Bổ ra làm sáu trình anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi tàu
Ở giữa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh xơi miếng trầu này
Dù mặn dù nhạt, dù cay dù nồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương


Đi về con cá lá rau
Mua gạo chợ Vực, mua trầu chợ Đông,
Lấy ai cũng lấy một chồng
Kiếm ăn ngày tháng no lòng thì thôi


Đôi bên hàng xứ xóm giãn ra
Để tôi đối địch với ba cô này
Được thời ăn đĩa trầu đầy
Thua thời cởi áo trao tay ra về.


Đón em anh hỏi đôi lời
Xuân thu ngoại cảnh mấy đời gặp nhau
Giận thời nói vậy em ơi
Khó thời tại vận mồ hôi tại trời
Có thương thì nói cho mau
Để anh dựng lễ trầu cau bỏ giềng.

Ước gì anh hóa ra vôi
Em hóa trầu lộc tốt tươi lại nồng


Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về
Em đang theo chân thầy gót mẹ
Để cho trọn bề hiếu trung


Anh thương em trầu hết lá lươn
Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nhì đày, hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó em ôi
Chết thì chịu chết, lìa đôi anh không lìa


Anh về cuốc đất trồng cau,
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trầu nọ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà


Áo cưới chưa hết nếp tà
Cô dâu xách nón về nhà cô dâu.
Phải chăng cau đã chán trầu,
Đôi bờ đã gãy nhịp cầu sang sông


Bước qua vườn ớt hái trầu
Hỏi thăm lê lựu, mãng cầu chín chưa ?


Bắc thang lên hái ngọn trầu hương
Đó thương ta một, ta thương đó mười.


Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng
Trầu em cao số muộn màng anh thương.


Bồng em mà bỏ vô nôi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ
Mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán nón quan hai,
Bán thao quan mốt,
Bán quai năm tiền.
Xem thêm câu: "Ru em cho thét cho muồi"
Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm
Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái, ôm lưng lão già
Ông ơi, ông buông tôi ra
Kẻo người trông thấy, người ta chê cười


Ba phen trầu hổi cả ba
Phen này hổi nửa thiệt là số anh


Bánh cả mâm sao em kêu rằng bánh ít ?
Trầu cả chợ, sao em gọi là trầu không?
Trai nam nhi không đối đặng
Gái má hồng xin thử đối xem !


Bây giờ anh bắt tay nàng
Hỏi sao lá ngọc cành vàng xa nhau
Xa nhau ta mới xa nhau
Khi xưa ta vẫn ăn trầu một cơi


Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
- Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôị


Bên anh dư đất trồng cau
Cho em xin miếng trồng trầu một bên.


Cơi trầu anh têm ra đây
Nhân duyên chưa đinh trầu này chưa ăn.


Cầu đây có gái bán hàng
Có đôi rùa đá có nàng bán cau
Mắt xanh tươi thắm môi trầu,
Miệng cười núm má cho cầu thêm xinh.


Cách nhau một bức rào thưa
Tay chùi nước mắt, tay đưa, miếng trầu.


Cái cốc ăn trầu đỏ môi
Có ai làm lẽ chồng tôi thì làm?


Cành đào lá liễu phất phơ
Đường đi khuất nẻo ai ngờ gặp nhau
Gặp nhau ăn một miếng trầu,
Còn hơn đám cưới mổ trâu ăn mừng.


Cau non khéo bửa cũng dầy
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm


Chăn đơn nửa đắp gối chiếc nửa hòng
Cạn sông lở núi ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn xôi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha
Làm cho quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đường ra lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời
Đất Bụt mà ném chim trời
Ông Tơ Bà Nguyệt xe dây nhợ nửa vời ra đâu
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén dầu, chỉ chẳng bén kim
Thương nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn
Trầu Cau Trong Ca Dao Vế trở về sau không giống với câu
Chăn đơn nửa đắp gối chiếc nửa hòng
Cạn sông lở núi ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn xôi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha
Làm cho quên cửa quên nhà
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời
Đất Bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim
Thương nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn.
Trầu Cau Trong Ca Dao Vế trở về sau không giống với câu
Chạnh thương chạnh nhớ chạnh sầu
Vì ai nên nỗi cho trầu xa cau
Bắt cá, cá lội trên đàng,
Hái rau rau héo, hỏi sao mẹ dùng hả con?

23 tháng 4 2020

30 câu thì viết đến sáng mai à.

19 tháng 1 2018

Khen ai đem ngõ trỏ đây
Mà chàng cũng biết cảnh này có hoa
- Con ong đem ngõ, con bướm trỏ đương
Cho nên anh biết nhóm phường ở đây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Có bản khác: Khen cho… Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31582 )
Khoan khoan dóng trống mở cờ
Hình như nho sĩ tới bờ đào nguyên
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Khoan khoan ở đây có nghĩa là nhanh nhanh Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31583 )
Lạ lùng anh mới tới đây!
Đào đông chưa tỏ, liễu tây chưa tường
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31529 )Lạ lùng anh mới tới đây! (2)
Như chim lạ bầy như cá lạ ao
Cá lạ ao muốn vào mà sợ
Chim lạ bầy chờm chợ trên cây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31530 )Lác trông mái lá tam quan
Thấy chàng niên thiếu lạc ngàn tới chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Lác=liếc Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31584 )Lác trông phong cảnh đẹp thay
Bồng lai có phải chốn nầy hay không?
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Bồng lai: tên một hòn núi ở Bột Hải bên Trung Hoa. Ý nói nơi có nhiều cô gái đẹp ở (Có bản khác: Nhác trông hay liếc trông) Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31531 )Làm giàn cho bí leo chơi (2)
Hát dăm ba chuyện thử lời nam nhi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31579 )Lắng tai nghe tiếng chân vân
Tiếng đàn tiếng nhị nghe gần nghe xa
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31533 )Lắng tai nghe tiếng em đàn
Tiếng êm như nhiễu, tiếng nhẹ nhàng như tơ (*)
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Hoặc: Cá mười khe đứng lại, chim mười ngàn đậu im. Hoặc: Cá dưới khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31532 )Lắng tai nghe tiếng như ru
Chiếu thu dễ khiến, nét thu nhẹ nhàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31585 )Liếc mắt thấy bóng văn nhân
Đi đâu mà lại quá chân chốn nầy
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31586 )May sao may khéo là may
Trượng phu lại gặp được tay nữ tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31534 )Mấy lâu gần nước xa khơi
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan
Hôm nay thong thả thanh nhàn
Gặp được bạn cũ thở than mấy lời
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31637 )Mênh mông một nước một chèo Non sông ghánh nặng vẫn đeo bên mình
Non sông gánh nặng vẫn đeo bên mình
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Nghệ An (Câu số 25470 )Miền Trung cho đến Miền Nam
Nào chùa Thiên Mụ,Tam Quan, Chợ Cồn
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Thiên Mụ hay Linh Mụ, Thị Trấn Tam Quan, Huyện An Lão, Bình Định; Chợ Cồn là chợ nhiều nơi như Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Phú Yên, Xuất xứ: - Miền Trung, Phú Yên (Câu số 7570 )Mới xa mới kéo mới nồi
Mới trông anh đó, mới ngồi xuống đây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31587 )Muốn cho đó hát đây nghe
Đó thắt quai đãy, đây xe chi vàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31590 )Muốn cho tiếng trúc tiếng tơ
Rồng chầu phượng múa nhở nhơ đua tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31589 )Muốn cho trai bạn đến chơi
Vũ môn (*) cá nước thảnh thơi đua tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * (*) Tục truyền Cá chép ở Trường Giang, Thiểm Tây đến tháng 8 thi nhau con nào vượt được 3 cấp thì hoa rồng, ý chỉ thi đỗ; Vũ môn là cửa thí võ Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31588 )Nên chăng sẽ xướng vài bài
Kẻo mà kẻ hán người hài trông mong
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31640 )Nên chăng sẽ xướng vài câu
Kẻo mà đứng mãi, chờ lâu thêm phiền
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31639 )Ngảy rày anh những đi mô
Trồng sen anh nỏ (chẳng) xuống hồ thăm sen
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Ngảy rày = Lâu nay; Có bản khác: Để em thương nhớ, ngẩn ngơ ngậm sầu Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31593 )Nghe đây có giếng mới đào
Có chợ mới họp anh tạt vào bán mua
Còn không ta đợi ta chờ
Hay là như ruộng có bờ thì thôi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31541 )Nghe lời anh kể nhẹ nhàng
Trong tay có bạc có vàng cũng trao
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31537 )Nghe tin chàng mới tới đây
Sai người ra dọn lầu tây cung đường
Chiếu hoa dưới phản trên giường
Tranh treo màn cuốn, phủ trương tứ bề
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31594 )Nghe tin đây mới cưới phường
Anh là khách lạ trên Lường xuống chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Lường tức chợ Lường cũng là tên gọi cả vùng quanh thị trấn Đô Lương hiện nay Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31539 )Nghe tin em hát đâu đây
Anh về đóng chiếc tàu tây tới tìm
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31542 )Nghe tin em hay hát hay hò
Qua mấy sông anh cũng lội, qua mấy đò anh cũng sang
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31536 )Nghe tin em hay hát, hay hò
Cho nên anh phải chèo đò tới đây
- Một chiếc ghe lui năm bảy chiếc đò vào
Ngọn cỏ xanh cuộn lại, ngọn cờ đào kéo lên
Kéo lên ta hát cho liền
Cho tình đằm thắm, cho duyên đậm đà
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31595 )Ngó lên chợ dốc triền miên
Nắm dây lưng đỏ hỏi tiền mua tiêu
Đặt con vào dạ phải lo
Nghệ tiêu, tiêu nghệ anh phải lo cho nàng
Em biểu anh lên núi đốt than
Chặt cây che ổ cho nàng sanh thai
Mai sau đặng chút con trai
Đem về báo dưỡng vãng lai tử đường
Em đừng vu oan giá họa
Em đừng mang vạ cho chàng
Em lấy ai ruột chửa chang bang
Đổ thừa giây lưng đỏ cho làng bắt anh
Cho mau tới tháng tới ngày
Đặng em sanh đẻ coi mà gái trai
Phải chi con gái thời chàng xin không
Phải chi nam tử mặt rồng
Tốn bao nhiêu anh chịu làm chồng nuôi cho
Làm thân con gái sao chẳng biết lo
Để ba bốn tháng em còn đòi nghệ tiêu
Để làm chi thậm dĩ chí kiều
Em níu ai em níu, lưng lụa điều này buông ra
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Khánh Hòa (Câu số 39155 )Nhà em có một cây đào
Anh đi qua ngõ không vào hái chơi
Đào ngon đào ngọt anh ơi
Đào chua đào chát không mời anh ăn
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31592 )Nồi dấm mà nấu cà kiu
Anh ăn mát ruột chín chiều thương em
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Nghệ An (Câu số 25471 )Non Bồng nghe nói có tiên
Giang hồ du thủy vui miền đến chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31535 )Non xa nước biếc ngàn trùng
Hỡi ai là khách anh hùng tới chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31638 )Nước non, non nước hội này
Dêm thanh viếng cảnh cho khuây hỡi tình
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31641 )Nước trong thấy bóng dưới rào
Lòng em tưởng vọng anh hào lai du
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31591 )Ở nhà anh khiến không đi
Đến nghe nàng nói điêu chi hỡi nàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31538 )Ở nhà anh mới bước ra
Thấy em nhan sắc Hằng Nga má đào
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xem thêm: Hằng Nga, Hậu Nghệ Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31540 )Ở nhà con cậu cháu quan
Đi ra phường vải hát đàn nghe chung
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31643 )Ở nhà con thánh con thần
Đi ra phường vải cầm cân thẳng bằng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31644 )Ở nhà đã định không đi,
Bói Kiều một quẻ, bỗng nhi gặp chàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Qu? Nhi = Quả nhiên Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31642 )

19 tháng 1 2018

Ai lên làng Quỷnh hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!


Muốn ăn cơm trắng cá mè,
Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.
Muốn ăn cơm trắng cá rô,
Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!


Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng

Ai về Hà nội ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui
Đường về xứ Lạng mù xa..
Có về Hà nội với ta thì về
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,



Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm 
Mớ rau sắng, quả mơ non 
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng? 

Ngày xuân cái én xôn xao 
Con công cái bán ra vào chùa Hương. 
Chim đón lối, vượn đưa đường 
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này. 


Sản vật 
Ra đi anh nhớ Nghệ An, 
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.

"Yến sào Vinh Sơn 
Cửu khổng cửa Ròn 
Nam sâm Bố Trạch 
Cua gạch Quảng Khê 
Sò nghêu quán Hàn... 
Rượu dâu Thuận Lý..."

Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Đừng thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang

7 tháng 1 2022
Cái bống đi chợ Cầu Nôm
Sao mày chẳng rủ cái tôm đi cùng
Cái tôm nổi giận đùng đùng
Nó trôi ra bể lấy chồng lái buônHỡi ai đi ngược về xuôi
Nhớ hội Đa Hòa mồng mười tháng hai
7 tháng 1 2022

Cái bống đi chợ Cầu Nôm

Sao mày chẳng rủ cái tôm đi cùng

Cái tôm nổi giận đùng đùng

Nó trôi ra bể lấy chồng lái buôn

Hỡi ai đi ngược về xuôi Nhớ hội Đa Hòa mồng mười tháng hai

29 tháng 1 2021

Tham khảo nhé em: 

Xin chào đồng hương Hưng Yên:

1. Con cò mà đậu cành tre

Ông tây bắn súng cò què một chân

Sáng mai mẹ cõng chợ Bần

Mọi người mới hỏi sao chân cò què

Cò rằng cò đậu ngọn tre

Ông tây bắn súng cò què một chân

2.Tân Dân một tháng ba mươi sáu trận chống càn

Xác thù chất đống máu loang đầy đồng

3. Mấy năm Tự Đức lên ngôi

Cơm chẳng dính nồi, trẻ khóc như ri

4. Đống xương Thiết Trụ, vũng máu Nghi Xuyên

Cây đa Đông Tảo còn in hận thù

5. Ai vào mảnh đất Đường Hào

Có cụ Tán Thuật đào hào đánh tây

6. Chớ tham đồng bạc con cò

Bở cha ***** đi phò thằng tây

Chuyện đâu có chuyện lạ đời Quan đi theo giặc bắt người lành ngay Ngàn năm nhớ mãi nhục này Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù Bốt Bần ngày thánhg âm u

7.Lính vua, lính chúa, lính làng

Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra

Giá vua bắt lính đàn bà

Để em đi đỡ anh vài bốn năm Lên Bần, xuống Thứa, chợ Dầm Quanh đi quanh lại ba năm em về.

8.Thằng Tây súng ngắn, súng dài Dân tao:

Vồ, gậy, dao bài, câu liêm.

Trường kỳ tao đánh ngày đêm

Đánh cho mày phải đảo điên tơi bời

Văn Giang chẳng phải đất chơi.

Văn Giang là huyện phía bắc tỉnh Hưng Yên

19 tháng 7 2018

1. Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

2. Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

3. Thân em như trái bần trôi

Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu

P/S: Nói chung thì những câu ca dao, tục ngữ có phép so sánh về người phụ nữ thường bắt đầu bằng cụm từ Thân em. Bạn có thể tìm thêm một số câu khác nhé.

3 tháng 1 2018

Quê tôi  mang tiếng quê nghèo
Mà trăm chuyện kể ra đều bằng thơ

Chuyện sen theo mẹ lên chùa
Dân làng đi cấy suốt mùa sáng trăng

Con gà biết nhớ lá chanh
Chuồn chuồn cao thấp mà thành nắng mưa

Yêu nhau mấy núi cũng vừa
Miếng gừng hạt muối thành bùa thủy chung

Mẹ tôi quen ruộng quen đồng
Ru con là nói thật lòng ước mơ…

Lời ru từ buổi ấu thơ
Che con hết cả nắng mưa, đói nghèo
 
Tôi chìm trong suối ca dao
Từng dòng lục bát giọt nào cũng thơm

Bây giờ dẫu mẹ chẳng còn
Tôi tìm bóng mẹ trong hồn ca dao…

21 tháng 1 2018

- Cam xã Đoài, xoài Bình Định. 
- Dưa La, húng Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét. 
- Lụa này thật lụa Cổ đô 
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng. 
- Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi 
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh. 
- Cổng làng Tò, trâu bò làng Hệ. 
- Cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang. 
- Bưởi Đại Trà, cam Đồng Dụ, gà Văn Cú. 
- Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề 
 

21 tháng 1 2018

Bao giờ núi Ấn hết tranh
Sông Trà hết nước anh đành xa em

Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh
Liều mình lén mẹ theo anh phen này

Sớm mơi xuống Quán Cơm em thấy hòn núi Hó
Chiều qua Đồng Có em thấy hòn núi Tròn
Về nhà than với chồng con
Ra đi gan nát dạ mòn vì đâu

Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm

Sông Trà sát núi Long Đầu
Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa
Núi Long Đầu lưu danh hậu thế
Chùa Thiên Ấn ấn để hậu hoàng
Ai về xứ Quảng cho nàng về theo

Ai về núi Bút, Quán Đàng
Núi bao nhiều đá dạ thương chàng bấy nhiêu

Ba La, Vạn Tượng, Cầu Mông
Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La

Ai về Cỗ Lũy cô thôn
Nước sông Trà Khúc sóng dồn lăn tăn

Ai về quê ấy Nghĩa An
Ghé thăm phong cảnh Chùa Hang, Bàn Cờ

Tư Nghĩa, Cửa Đại là đây
Gành Hàu, núi Quế đá xây nên chùa
Dưới thời bông súng nở đua
Ngó lên trên chùa đá dựng kiểng giăng
Ngó qua bên xóm Trường An
Ngó xuống hòn Sụp cát vàng soi gương

Sơn Tịnh có núi Chân Trâu
Có bàu ông Xá, có cầu Rừng Xanh

Bao giờ rừng Thủ hết gai
Sông Trà hết nước mới sai lời nguyền

Tai nghe anh lấy vợ Ba La
Ruột đau từng chặng, nước mắt ra từng luồng

Ba La đất tốt trồng hành
Đã xinh con gái lại lành con trai
Vạn Tượng những chông, những gai
Con gái mốc thích con trai đen sì

Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Ân Phú với anh thì về
Ân Phú có ruộng tứ bề
Có sông tắm mát, có nghề mạch nha

Hỏi thăm qua chú bán quynh
Thấy ngoài Bến Ván, Trì Bình gặt chưa?
Bến Ván bán tới Quán Cơm
Gặt chưa không biết, thấy hai cây rơm ú ù

Cò bắt lươn cò trườn xuống cỏ
Lươn bắt cò cò bỏ cò bay
Từ ngày xa bạn đến nay
Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
Quán Cơm nào quán nào nhà
Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
Ngó vô Hàng Rượu mà không thấy chàng

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu

Phải đâu chàng nói mà xiêu
Tại con cá bống tại niêu nước chè

Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Mộ Đức

Mứt gừng Đức Phổ
Bánh nổ Nghĩa Hành
Đậu xanh Sơn Tịnh

Cô gái lòng son
Không bằng tô don Vạn Tượng

Nghèo thì nghèo, nợ thì nợ
Cũng cưới cho được con vợ bán don
Mai sau nó chết cũng còn cặp ui

Sơn Tịnh đường đinh
Sa Huỳnh muối trắng

Bậu về nhớ ghé Ba La
Mua cân đường phổi cho ta với mình

Muối Xuân An, mắm Tịnh Kỳ
Khoai lang dưới Trảng, gạo thì Đường Trung

Ai về Cỗ Lũy, Xóm Câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng

Gái Thanh Khiết giỏi nghề cải giá
Trai Sung Tích chuyên dạ kén dâu

Bao giờ Thiên Mã sang sông
Thì làng Mỹ Lại mới không công hầu

Mía ngọt tận đọt
Heo béo tận lông
Cổ thời mang sông
Tay cầm lóng mía
Vừa đi vừa hít
Cái *** sưng vù

Sông Trà Khúc ai mà tát cạn
Rừng Trà Bồng ai đẵn hết cây
Anh mà đi với thằng Tây
Em đành phải dứt hết dây nghĩa tình

Ai về Sơn Tịnh quê ta
Đừng quên chiến thắng Ba Gia lẫy lừng

Tiếng đồn du kích Tịnh Khê
Lính đi mất xác, quan về mất lon

Ai về Cổ Lũy Cô Thôn
Quê ta Quảng Ngãi mồ chôn quân thù

Chèo ghe xuống Trạm múc dầu
Hỏi thăm chú lái nhức đầu khá chưa
Chưa khá tui bẻ nồi lá cho xông
Mồ hôi tui quạt, ngọn gió lồng tui che

Con mèo trèo lên tấm vách
Con chó dưới ngạch ấm ách chó tru
Thương anh kẻ oán người thù
Lên chùa Thiên Ấn mà tu cho rồi

Chẻ tre bện sáo ngăn sông
Đến khi đó vợ đây chồng mới hay
Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn sông Trà Khúc đợi ngày gặp em

Qua chùa núi Hó thắp bó nhang vàng
Xin cho bạn cũ lại hoàn như xưa
Trông trời chẳng thấy trời mưa
Rồng đi lấy nước rồng chưa kịp về
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh
Trách ai treo ngọn thắt ngành
Cho chàng xa thiếp cho anh xa nàng

Nhà em có bụi mía mưng
Có con chó dữ, anh đừng lại qua
Qua lại chi cho nàng mang tiếng
Rước khách qua đường sớm viếng chiều thăm

Mía sâu có đốt
Nhà dột có nơi
Tui thấy vui tui mới đến chơi
Ai ve các chị mà làm hơi quá chừng

Lên non tìm quế, ra Huế tìm chồng
Đến đây tìm bạn ruột bầm như dưa
Làm vầy đã thắm tình chưa
Một mình em đứng giữa mưa em chờ

Ba năm quế gãy còn cành
Bình hương tan nát, miếng sành còn thơm

Nhà bà có ngọn mía mưng
Có cô gái út mà ưng ông già

Trồng trầu tưới nước cho vông
Cảm thương cây quế đứng trông một mình

Em nguyền cùng anh một miếng tóc mai
Trước chùa Quan Thánh, nghe lời ai anh bỏ nàng

Thương tằm cởi áo bọc dâu

  • Cần Thơ là tỉnh,

Cao Lãnh là quê,

Anh đi lục tỉnh bốn bề,

Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,

Anh có thương em, xin sắm một con đò, Để em qua lại mua cò gởi thơ.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,

Anh có thương em, cho bạc cho tiền,

Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

  • Con trai trong Quảng ra thi,

Thấy con gái Huế chân đi không đành.

  • Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,

Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.

Viết thư thăm hết mọi nhà,

Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.

  • Chỉ điều xe tám, đậu tư,

Anh đi Gia Định thư từ cho em.

  • Chị Hươu đi chợ Đồng Nai

Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.

  • Chợ Sài Gòn cẩn đá

Chợ Rạch Giá cẩn xi măng

Giã em xứ sở vuông tròn

Anh về xứ sở không còn ra vô.

D[sửa]

  • Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.

  • Dù ai buôn bán gần xa,

Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.

Đ[sửa]

  • Đường vô xứ Huế quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

  • Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.

  • Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

  • Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say

G[sửa]

  • Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

K[sửa]

  • Khen ai khéo như họa đồ,

Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn Gươm

L[sửa]

  • Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,

Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.

Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,

Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.

Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,

Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.

Anh em Mười Chức công khùng,

Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...

  • Lênh đênh ba mũi thuyền kề,

Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.

  • Làng tôi có lũy tre xanh,

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

Bên bờ vải nhãn hai hàng,

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

M[sửa]

  • Mẹ bồng con ra ngồi ái Tử hinh

Gái trông chồng đứng núi Vọng Phu

Bao giờ nguyệt xế, trăng lu tinh

Nghe con chim kêu mùa hạ, biết mấy thu gặp chàng.

  • Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi...

  • Muối khô ở Gảnh mặn nồng thom

Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng.

N[sửa]

  • Nam Kì sáu tỉnh em ơi,

Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn.

Sông Hương nước chảy trong luôn,

Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.

  • Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

  • Ngày xuân cái én xôn xao,

Con công cái bán ra vào chùa Hương

Chim đón lối, vượn đưa đường,

Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.

  • Ngọ Môn năm cửa chín lầu,

Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng.

  • Những người mà xấu như ma,

Uống nước chùa Hà lại đẹp như tiên.

  • Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng

O - Ô - Ơ[sửa]

  • Ở đâu năm cửa, nàng ơi!

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

Ở đâu là chín tầng mây?

Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?

Chùa nào mà lại có hang?

Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?

Ai mà xin lấy túi đồng?

Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?

Nước nào dệt gấm thêu hoa?

Ai mà sinh ra cửa, sinh nhà, nàng ơi?

Kìa ai đội đá vá trời?

Kìa ai trị thủy cho đời bình yên

Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời?

Xin em giảng rõ từng nơi từng người.

Thành Hà nội năm cửa, chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục bên trong,

Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.

Trên trời có chín từng mây,

Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.

Chùa Hương Tích mà lại ở hang;

Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?

Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng,

Trên trời lại có con sông Ngân Hà.

Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;

Ông Hữu Sào sinh ra cửa, ra nhà, chồng ơi!

Bà Nữ-Oa đội đá vá trời;

Vua Đại Vũ trị thủy cho đời bình yên

Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,

Em xin giảng rõ từng nơi nhiều người

Q[sửa]

  • Quảng Nam có núi Ngũ Hành,

Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.

  • Quảng Nam nổi tiếng bòn bon

Chả viên Bình Định vừa ngon vừa lành

Chín mùi da vẫn còn tươi

Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.

R[sửa]

  • Rau đắng nấu với cá trê

Ai đến đất Mũi thì "mê" không về!

  • Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn

Đài Nghiêng, Tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

S[sửa]

  • Sông Tô nước chảy quanh co,

Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya.

Buồn tình vừa lúc phân chia,

Tiếng ai như đã bên kia hẹn hò.

  • Sông Đồng Nai nước trong lại mát

Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi

Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý

Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.

T[sửa]

  • Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng

Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

  • Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoai

Đất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.

  • Trầu Bà Điểm xẻ ra nửa lá

Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi

Buồn tình gá nghĩa mà chơi

Hay là anh quyết ở đời với em?

Em nào có dối lòng em

Họa chi vô đới em chăng được nhờ?

U[sửa]

  • U Minh, Rạch Giá thị hóa Sơn Trường

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

  • Ước gì anh lấy được nàng,

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

V[sửa]

  • Vịt nằm bờ mía rỉa lông

Thấy cảnh thương chồng đi núi Hà Tiên

X[sửa]

  • Xem kìa Yên Thành như kia,

Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh.

Đầu chợ Bưởi điếm cầm canh,

Người đi kẻ lại như tranh họa đồ.

Cổng chợ có miếu vua cha

Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên...

Y[sửa]

  • Yên Bình với bóng tre xanh

Tre tỏa bóng mát cho em vui đùa.

4 tháng 9 2019
  • Cần Thơ là tỉnh,

Cao Lãnh là quê,

Anh đi lục tỉnh bốn bề,

Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,

Anh có thương em, xin sắm một con đò, Để em qua lại mua cò gởi thơ.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,

Anh có thương em, cho bạc cho tiền,

Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

  • Con trai trong Quảng ra thi,

Thấy con gái Huế chân đi không đành.

  • Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,

Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.

Viết thư thăm hết mọi nhà,

Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.

  • Chỉ điều xe tám, đậu tư,

Anh đi Gia Định thư từ cho em.

  • Chị Hươu đi chợ Đồng Nai

Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.

  • Chợ Sài Gòn cẩn đá

Chợ Rạch Giá cẩn xi măng

Giã em xứ sở vuông tròn

Anh về xứ sở không còn ra vô.

D[sửa]

  • Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.

  • Dù ai buôn bán gần xa,

Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.

Đ[sửa]

  • Đường vô xứ Huế quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

  • Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.

  • Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

  • Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say

G[sửa]

  • Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

K[sửa]

  • Khen ai khéo như họa đồ,

Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn Gươm

L[sửa]

  • Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,

Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.

Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,

Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.

Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,

Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.

Anh em Mười Chức công khùng,

Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...

  • Lênh đênh ba mũi thuyền kề,

Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.

  • Làng tôi có lũy tre xanh,

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

Bên bờ vải nhãn hai hàng,

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

M[sửa]

  • Mẹ bồng con ra ngồi ái Tử hinh

Gái trông chồng đứng núi Vọng Phu

Bao giờ nguyệt xế, trăng lu tinh

Nghe con chim kêu mùa hạ, biết mấy thu gặp chàng.

  • Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi...

  • Muối khô ở Gảnh mặn nồng thom

Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng.

N[sửa]

  • Nam Kì sáu tỉnh em ơi,

Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn.

Sông Hương nước chảy trong luôn,

Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.

  • Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

  • Ngày xuân cái én xôn xao,

Con công cái bán ra vào chùa Hương

Chim đón lối, vượn đưa đường,

Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.

  • Ngọ Môn năm cửa chín lầu,

Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng.

  • Những người mà xấu như ma,

Uống nước chùa Hà lại đẹp như tiên.

  • Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng

O - Ô - Ơ[sửa]

  • Ở đâu năm cửa, nàng ơi!

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

Ở đâu là chín tầng mây?

Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?

Chùa nào mà lại có hang?

Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?

Ai mà xin lấy túi đồng?

Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?

Nước nào dệt gấm thêu hoa?

Ai mà sinh ra cửa, sinh nhà, nàng ơi?

Kìa ai đội đá vá trời?

Kìa ai trị thủy cho đời bình yên

Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời?

Xin em giảng rõ từng nơi từng người.

Thành Hà nội năm cửa, chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục bên trong,

Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.

Trên trời có chín từng mây,

Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.

Chùa Hương Tích mà lại ở hang;

Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?

Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng,

Trên trời lại có con sông Ngân Hà.

Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;

Ông Hữu Sào sinh ra cửa, ra nhà, chồng ơi!

Bà Nữ-Oa đội đá vá trời;

Vua Đại Vũ trị thủy cho đời bình yên

Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,

Em xin giảng rõ từng nơi nhiều người

Q[sửa]

  • Quảng Nam có núi Ngũ Hành,

Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.

  • Quảng Nam nổi tiếng bòn bon

Chả viên Bình Định vừa ngon vừa lành

Chín mùi da vẫn còn tươi

Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.

R[sửa]

  • Rau đắng nấu với cá trê

Ai đến đất Mũi thì "mê" không về!

  • Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn

Đài Nghiêng, Tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

S[sửa]

  • Sông Tô nước chảy quanh co,

Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya.

Buồn tình vừa lúc phân chia,

Tiếng ai như đã bên kia hẹn hò.

  • Sông Đồng Nai nước trong lại mát

Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi

Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý

Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.

T[sửa]

  • Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng

Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

  • Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoai

Đất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.

  • Trầu Bà Điểm xẻ ra nửa lá

Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi

Buồn tình gá nghĩa mà chơi

Hay là anh quyết ở đời với em?

Em nào có dối lòng em

Họa chi vô đới em chăng được nhờ?

U[sửa]

  • U Minh, Rạch Giá thị hóa Sơn Trường

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

  • Ước gì anh lấy được nàng,

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

V[sửa]

  • Vịt nằm bờ mía rỉa lông

Thấy cảnh thương chồng đi núi Hà Tiên

X[sửa]

  • Xem kìa Yên Thành như kia,

Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh.

Đầu chợ Bưởi điếm cầm canh,

Người đi kẻ lại như tranh họa đồ.

Cổng chợ có miếu vua cha

Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên...

Y[sửa]

  • Yên Bình với bóng tre xanh

Tre tỏa bóng mát cho em vui đùa.

Xem thêm[sửa]

  • Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước
  • Ca dao Việt Nam về chống áp bức phong kiến và chống thực dân, đế quốc
  • Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội
  • Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình
  • Ca dao Việt Nam về tình yêu
6 tháng 10 2021

tham thảo :

 

Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao bể rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!

Bài ca dao trên làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình.
 
Mở đầu bài ca dao, tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”. Đó là công sinh thành, dưỡng dục; Đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khắng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào.
 
 Đây cùng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Đối công cha với nghĩa mẹ, núi với biển là cách diễn đạt quen thuộc, đồng thời cùng làm cho các hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao hơn.
 
Phép so sánh trên đã làm nổi bật một ý nghĩa sâu xa: công ơn cha mẹ vô cùng to lớn, không thể nào cân đong đo đếm hết được: “Núi cao bể rộng mênh mông”. Bởi vậy, kết lại bài ca dao, tác giả dân gian đưa ra lời nhắn nhủ: Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhắc đến “cù lao chín chữ” là nhắc đến công ơn mang nặng đẻ đau, công ơn sinh thành dưỡng dục nuôi nấng con thành người của cha của mẹ. Để có con khôn lớn hôm nay, cha mẹ đã trải qua bao vất vả, đau đớn, cực nhọc,... Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Tiếng “ơi!” vang lên thể hiện tình cảm tha thiết, mong muốn chân thành cảm động của tác giả dân gian.
 
Bài ca dao khép lại để lại trong lòng người đọc niềm xúc động thiêng liêng về công ơn trời bể của những đấng sinh thành. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ.