II/ TỰ LUẬN
Câu 1: Trong các thế kỉ I – VI, chế độ cai trị của các triều đại phương Bắc đối với nước ta có gì thay đổi?
Câu 2: Hãy trình bày những biểu hiện mới về sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp nước ta từ thế kỉ I – VI.
Câu 1. Chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc rất nham hiểm và tàn bạo: Chúng âm mưu thực hiện chính sách “đồng hóa” dân ta:
- Thay đổi bộ máy cai trị đến chức huyện lệnh là của người Hán
- Bắt nhân dân ta học chữ Hán, xóa bỏ phong tục tập quán của người Việt.
- Bắt nhân dân ta phải cống nạp sản vật quý hiếm
- Thực hiện chính sách cướp đoạt, bắt dân ta phải nộp nhiều thứ thuế và làm các công việc lao dịch nặng nề.
- Chúng còn giữ độc quyền về sắt để kìm hãm sự sản xuất của nhân dân ta…
⇒Những việc làm đó chứng tỏ chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc trong các thế kỉ I – VI là rất nguy hiểm và tàn bạo.
Câu 2.
Những biểu hiện về sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp nước ta:
* Thủ công nghiệp: nghề thủ công cổ truyền phát triển
- Nghề rèn sắt: mặc dù bị kìm hãm nhưng vẫn phát triển.
- Nghề gốm: Đã biết tráng men và vẽ trang trí trên đồ gốm; sản phẩm đồ gốm ngày càng phong phú về chủng loại như nồi, vò, bình, bát, ấm chén, gạch, ngói,… đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và xây dựng nhà cửa.
- Nghề dệt: ngoài các loại vải bông, vải gai, vải tơ,... người ta còn dùng tơ tre, tơ chuối để dệt.
* Thương nghiệp: phát triển
- Sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp được đem trao đổi ở các chợ làng.
- Có thương nhân Trung Quốc, Gia- va, Ấn Độ,… đến buôn bán ở Luy Lâu, Long Biên,…
Câu 1:
Chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta từ thế kỉ I đến thế kỉ VI
Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trung, nhà Hán vẫn giữ nguyên châu Giao.
Đầu thế kỉ III, nhà Đông Hán suy yếu. Trung Quốc bị chia thành ba nước Ngụy - Thục - Ngô (Tam quốc). Nhà Ngô tách châu Giao thành Quảng Châu (thuộc Trung Quốc) và Giao Châu (Àu Lạc cũ).
Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán đưa người Hán sang thay người Việt làm Huyện lệnh trực tiếp cai quản các huyện.
Trong thời gian này, nhân dán Giao Cháu vẫn phải chịu nhiều thứ thuế (nhất là thuế muối, thuế sắt), lao dịch và nộp cống (các sản vật quý, sản phẩm thủ công và cả thợ khéo).
Thứ sử Tôn Tư bắt hàng nghìn thợ thủ công sang xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh).
Thế lực phong kiến phương Bắc tiếp tục tăng cường đưa người Hán sang Giao Châu, buộc dân ta phải học chữ Hán và tiếng Hán, tuân theo luật pháp và phong tục tập quán của người Hán.