Nội dung của bài Chiến Thắng Mtao mxay
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tham khảo:
Nhân vật Đăm Săn nổi bật lên trong toàn bộ cuốn sử thi nói chung và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” nói riêng hai khía cạnh. Một mặt, đó là con người hội đủ những phẩm chất cá nhân như trí tuệ, tài năng, nhân cách, khát vọng. Mặt khác, đó còn là sự gắn bó, liên kết với cộng đồng mà chính chàng là tù trưởng. Với cái nhìn ấy, ta thấy nhân vật Đăm Săn đã tự khẳng định mình trong những biến cố, sự kiện ở đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.
Xét về tình tiết trong mô hình cốt truyện thì cuộc giao tranh giữa Đăm Săn với các tù trưởng khác không chỉ xảy ra có một lần. Dường như nhu cầu mở rộng lãnh địa, tăng cường lực lượng, khẳng định quyền uy... là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cuộc giao tranh ấy. Nhưng trong các cuộc chiến xảy ra thì cuộc đối mặt giữa Đăm Săn với Mtao Mxây có tính chất điển hình hơn cả.
Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm. Tuy võ nghệ không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ “túc trí đa mưu”, lấy sự sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi mà còn khiêu khích “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta…”.
Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: “Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần”. Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của Mtao Mxây theo lối “quân tử phòng thân” luôn đề phòng bất trắc.
Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi: “Ta như gà làng mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Võ nghệ ấy là chắp vá: “Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Nhưng từ sự giả vờ ấy đã lộ ra một câu nói thật: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quên đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Không phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong vùng. Cái cách giả vờ ấy phải chăng làm cho đối thủ chủ quan, khinh suất?
Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa “kêu lạch xạch như quả mướp khô”), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề (“bước cao bước thấp”) nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm Săn. Khi Mtao Mxây “chém phập một cái”, chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi hại “chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.
Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là người bại trận.
Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn) của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn chuyện. Riêng với nhân vật Đăm Săn, tác giả cuốn truyện còn thực hiện phép đối xứng nghệ thuật nữa. Bằng cách ấy, nhân vật Đăm Săn xuất hiện như một điểm nhấn rực rỡ, sáng ngời.
Trước hết, chàng là người cương trực, thẳng thắn, không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất tiếng (“không được đàm ta khi ta đang đi xuống”) là hai lần Đăm Săn như thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh khi, tức giận: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là!”. Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây, tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng.
Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây chiến vì Đăm Săn có lý do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung khiên.
Tài nghệ phi thường của Đăm Săn được chứng thực trong cuộc múa khiên hùng tráng. Có đến hai dụng ý nghệ thuật của tác phẩm sử thi mà người kể khan đã dùng đắc địa. Thứ nhất là biện pháp đối lập hai chiều (giữa cảnh Mtao Mxây múa gươm trước với cái cách múa khiên đầy tốc độ của Đăm Săn “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô” là những đường gươm chậm chạp, nặng nề của Mtao Mxây: “bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông”. Thứ hai là vai trò của người dẫn truyện. Trong đợt múa khiên tiếp theo, đối xứng nghệ thuật đã không còn. Thay vào đó là lời thuyết minh của người chứng kiến. Trong lần múa khiên này, võ nghệ của Đăm Săn không còn là tốc độ mà chuyển sang cường độ. Nếu tốc độ múa khiên của chàng cứ thấy “vun vút” (“vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”) thì cường độ múa khiên của chàng lại là một trận bão lớn. Chỉ còn lại một hào hứng, một tung hô đầy kinh ngạc: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lãn lóc. Cầy cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung…”. Thủ pháp cường điệu khoa trương thật thích hợp trong văn cảnh này. Nó làm đậm lên một sức mạnh, một năng lực phi phàm chỉ những người xuất chúng như Đăm Săn mới có. Như thế là kịch tính đã phát triển tới tốc độ, tính hàm súc, lắng đọng cũng đạt đến độ cao.
Nhưng sự cường điệu khoa trương không bao giờ là vô hạn. Sức mạnh của Đăm Săn quả là có giới hạn. Nó biết dừng lại ở sự có lý ngay cả trong tư duy có yếu tố thần thoại của tác phẩm sử thi. Trong trường hợp ấy cần có thần linh trợ giúp. Ông trời, ông bụt hiện lên đúng lúc từ những giấc mơ. Trời, bụt giúp người hoạn nạn. Trời, bụt cũng giúp cho những khát vọng lớn của con người. Nhân vật ông trời ở đây đứng về phía Đăm Săn, phát hiện cho chàng cái “gót chân A-sin” của địch thủ. Chỉ tới lúc đó, Mtao Mxây mới không còn một thành lũy nào ẩn nấp. Khi cái áo giáp của Mtao Mxây rơi xuống, hắn mới hiện nguyên hình là một kẻ yếu đuối biết bao! Hình ảnh cái chuồng lợn, chuồng trâu bẩn thỉu đã xuất hiện ở đầu đoạn văn, nay được lặp lại với một ý vị mỉa mai trên một tinh thần khác. Ở lần thứ nhất nó liên quan đến nhân cách của Mtao Mxây thì lần thứ hai nó lại liên quan đến sức mạnh của một kẻ không còn gì đáng sợ nữa.
Nếu cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây khắc họa một phương diện của Đăm Săn, phương diện con người cá nhân thì cảnh trở về và lễ ăn mừng chiến thắng lại mở ra một góc khác của con người anh hùng đó: con người cộng đồng, con người xã hội.
Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đám Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ của Đăm Săn) cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên gấp đôi. Có trách nhiệm với tôi tớ, dân làng của mình, chàng có nghĩa vụ che chở cho tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây nữa. Sự mở rộng địa bàn ở đây không có nghĩa thôn tính một cách áp đặt, giản đơn. Nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện và người thủ lĩnh mới không hề có định kiến mà ngược lại hết sức bình đẳng, chân tình. Không một hiệu lệnh nào thúc ép, không một lời nói nào cao giọng răn đe. Đăm Săn đã gõ cửa từng nhà. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Câu trả lời thứ nhất (của dân làng): “Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!”. Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm một.
Lễ mừng chiến thắng do đó không chỉ đóng khung trong nghĩa hẹp là trừng trị một kẻ ác (Mtao Mxây) đã thành công. Nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Bởi vậy, âm hưởng của bản anh hùng ca mới ngát trời hào hứng: rộn rã âm thanh của các loại chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng có bao giờ. Và rồi sau cái phút nín lặng âm thanh ấy, một bản hòa ca còn hùng tráng hơn bởi có sự tham gia của “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng”. Ếch nhái cũng hoan hỷ, vui mừng, cùng kỳ nhông ngoài bãi “kêu rên inh ỏi suốt ngày đêm”. Không gian cứ mở rộng ra đến cùng trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn: “Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Lại nữa: “Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”.
Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiền tàng nội lực. Lúc Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi “Tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”. Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với “Ngực quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”. Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức mạnh vô địch, “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.
Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thú của cảm giác liền mạch nhưng lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự kết hợp thứ hai giữa câu chuyện được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những người nghe trong hình thức diễn xướng. Riêng ngôn ngữ sử thi thì đoạn văn là một ví dụ điển hình. Ngôn ngữ ấy vừa giàu chất hội họa (thông qua hình ảnh) vừa giàu chất âm nhạc (thông qua nhịp điệu). Hình ảnh thì có khi là tả thực, có khi là phóng đại, cường điệu, khoa trương. Riêng về âm nhạc thì tuy đoạn văn được kể dưới hình thức văn xuôi nhưng rất gần với thơ ở nhịp điệu, tiết tấu cân xứng, hài hòa, du dương trầm bổng. Để chứng minh những điều nhận định trên đây không khó. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.
- Ngôn ngữ của người kể biến hóa linh hoạt, hướng tới nhiều đối tượng; ngôn ngữ đối thoại được khai thác ở nhiều góc độ. Ngôn ngữ trang trọng, kết hợp ngôn ngữ kể, tả của người dẫn truyện và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, ngôn ngữ giàu âm thanh và hình ảnh.
- Nghệ thuật kể xem lẫn tả
- Các biện pháp nghệ thuật: So sánh, cường điệu, phóng đại, đối lập
Nghệ thuật
- Ngôn ngữ của người kể biến hóa linh hoạt, hướng tới nhiều đối tượng; ngôn ngữ đối thoại được khai thác ở nhiều góc độ. Ngôn ngữ trang trọng, kết hợp ngôn ngữ kể, tả của người dẫn truyện và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, ngôn ngữ giàu âm thanh và hình ảnh.
- Nghệ thuật kể xem lẫn tả
- Các biện pháp nghệ thuật: So sánh, cường điệu, phóng đại, đối lập
Em tham khảo:
Người anh hùng sử thi là trọng tâm miêu tả của bức tranh hoành tráng. Tầm vóc lẫn chiến công của chàng trùm lên toàn bộ chiến công, toàn bộ thiên nhiên và xã hội Ê-đê.
Trong quan niệm của người dân tộc Ê-đê, cuộc chiến từng đóng vai trò là "bà đỡ lịch sử" khiến cho cộng đồng ngày càng phát triển, ngày càng có cuộc sống ấm no, thịnh vượng. Trong sự phát triển ấy, người anh hùng có vị trí hết sức lớn lao tầm cỡ. Sau mỗi chiến công của người anh hùng là một lễ ăn mừng hoành tráng của cộng đồng để suy tôn, ca ngợi cũng như thể hiện niềm vui về sự no đủ, đông đúc mỗi ngày.
Sau chiến thắng oanh liệt trước tù trưởng Mtao-Mxây, Đăm Săn đã trở thành người anh hùng giàu có, hùng mạnh nhất. Tôi tớ theo về "đặc như bầy cà tong", của cải đưa về "nhiều như ong đi chuyển nước". Tràn ngập trong niềm vui, Đăm Săn đã cho toàn bộ tộc ăn mừng chiến thắng. Tiếng tuyên bố mở hội dõng dạc vang vọng của chàng khiến cho khắp rừng núi âm vang trong không khí háo hức. Cả cộng đồng người Ê-đê và người Ê-ga được tái hiện sinh động đầy sức sống. Và sừng sững trong xã hội ấy, là nét đẹp vừa hoành tráng, vừa lãng mạn của người anh hùng Đăm Săn.
Nét đẹp được ghi nhận trước tiệc của Đăm Săn trong lễ ăn mừng chính là nét đẹp về ngoại hình và sức mạnh.
Chàng được miêu tả với vẻ đẹp và sức mạnh của một vị thần. Người Ê-đê, Ê-ga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước. "Mình quấn chéo một tấm mền chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghêng ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như chim, bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc". Bằng nghệ thuật miêu tả, so sánh gần gũi, cụ thể với nhiều chi tiết hết sức sinh động, kết hợp với nghệ thuật trì hoãn sử thi và cách nói phóng đại sử thi, người dân Tây Nguyên đã biến người anh hùng của họ thành một vị thần với tất cả sức mạnh hội tụ từ núi rừng, vũ trụ. Sức mạnh của chàng được so sánh với những gì mạnh nhất, đẹp nhất của thiên nhiên. Vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ, trải qua bao cuộc chiến, Đăm Săn đã lớn lên và trở thành chiến thần. Chàng có tất cả vẻ đẹp cũng như sức mạnh của thần linh qua trí tưởng tượng bay bổng kì diệu và lòng mến yêu vô hạn của người Tây Nguyên. Không chỉ có sức mạnh dũng mãnh chàng còn có vẻ đẹp lãng mạn: "Chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa, đầu đội khăn nhiễu, vai mang mũ hoa, chàng ăn không biết no, uống không biết say, trò chuyện không biết chán". Toát lên từ câu chữ một chàng Đăm Săn hoà đồng vui vẻ. Không hề phân biệt địa vị cao thấp giàu hèn. Đăm Săn là biểu tượng cho hài hoà giữa cái đẹp dữ dội của núi rừng, vũ trụ với cái đẹp êm ả lãng mạn của tâm hồn người Tây Nguyên. Cái đẹp ấy vừa có sự cao cả, kì vĩ của người anh hùng lại vừa có nét kì diệu, đậm đà bản sắc Tây Nguyên.
Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sức mạnh và hình thể, Đăm Săn còn hiện lên trong lễ ăn mừng, ở vẻ đẹp của lòng tôn kính tổ tiên, thần linh, lòng hiếu khách, một tâm hồn thuỷ chung, phóng khoáng rộng rãi.
Sau chiến thắng, Đăm Săn không quên sai tôi tớ làm lễ cảm tạ tổ tiên và thần linh đã giúp cho chàng chiến thắng, đã giúp bộ tộc của chàng ngày một vững mạnh giàu có. "Ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu, rượu năm ché, trâu bảy con để dâng thần, rượu bảy ché, lợn thiến bảy con cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp". Cách Đăm Săn sai tôi tớ sắm đồ lễ cúng tế chứng tỏ lòng thành kính sâu sắc với thần linh, tổ tiên của chàng. Nó cũng chính là tiếng nói tín ngưỡng của cả cộng đồng dân tộc Ê-đê.
Sau khi làm lễ tạ khấn thần linh, tổ tiên Đăm Săn đã mời tất cả anh em, bạn bè, tôi tớ ăn uống: "Hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta, chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới...". Tiếng mời chào sang sảng như chính tấm lòng hào hiệp của chàng Đăm Săn. Chàng đã thiết đãi bạn bè, dân làng bằng những vật chất đầy đủ sang trọng, bằng niềm vui thân ái, khiến cho "cả một vùng nhão ra như nước" vui tới mức "lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mai đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng, ếch nhái dưới gầm nhà, kì nhông ngoài bãi thì kêu inh ỏi suốt ngày đêm". Bạn bè của chàng đông đúc: "Các cô gái đi lại vú đụng vú, các chàng trai đi lại ngực đụng ngực". Không khí ăn mừng như thế này bây giờ mới có. Bởi bây giờ người Ê-đê mới có người thủ lĩnh anh hùng dũng cảm, hào hiệp đến thế. Đó chính là niềm tự hào sâu sắc của người dân Ê-đê về vị tù trưởng Đăm Săn.
Cách xây dựng hình tượng đẹp đẽ lớn lao của người anh hùng trong không khí đông vui nhộn nhịp, lớn mạnh của cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của sử thi Tây Nguyên. Người anh hùng sử thi được toàn thể cộng đồng suy tôn tuyệt đối. Qua người anh hùng ta thấy được sự phát triển, ý chí thống nhất của toàn thể cộng đồng Ê-đê - một biểu hiện quan trọng của ý thức dân tộc.
Em tham khảo:
1.
Miếng trầu mang ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của thị tộc tiếp sức cho người anh hùng. Người anh hùng trong xã hội cổ đại không thể sống tách rời thị tộc.
2.
Vai trò của thần linh (Ông Trời):
+ Đăm Săn nằm mộng thấy ông Trời
+ Ông Trời đưa ra chỉ dẫn, gợi ý “cháu lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn là được”.
⇒ Thần linh (Ông Trời) ở đây chỉ có vai trò là người đưa ra gợi ý, chứ không phải là người quyết định, làm nên kết quả cuối cùng của cuộc chiến.
Đoạn trích khẳng định sức mạnh và ngợi ca vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn - một người trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình và thiết tha với cuộc sống bình yên, phồn vinh của thị tộc, xứng đáng là người anh hùng mang tầm vóc sử thi của dân tộc Ê-đê thời cổ dại.