1.Có ý kiến cho rằng: "Từ đấu lí chuyển sang đấu lực giữa chị Dậu và hai tên tay sai trong "Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một quá trình phát triển rất logic, vừa có giá trị nhân văn lớn lại vừa có giá trị hiện thực và tố cáo cao." Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
2.Nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc tác phẩm "Tắt đèn" đã nhận xét: "Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên cái chân dung lạc quan của chị Dậu." Hãy giải thích ý nghĩa câu nói trên.
3.Phân tích nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tức nước vỡ bờ".
Câu 1 :
Tham Khảo
Dàn ý :
* Mở bài:
Giới thiệu về tác giả - tác phẩm“ Tắt đèn” và “ Chị Dậu”
-> Khẳng định ý kiến trên hoàn toàn hợp lý.
* Thân bài:
+ Đấu lý: Hình thức sử dụng ngôn ngữ - lời nói.
+ Đấu lực: Hình thức hành động.
=> Quá trình phát triển hoàn toàn lôgíc phù hợp với quá trình phát triển tâm lý của con người
1. Hoàn cảnh đời sống của nhân dân Việt Nam trước Cách mạng
2. Hoàn cảnh của gia đình Chị Dậu: Nghèo nhất trong những bậc cùng đinh ở làng Đông Xá
3. Cuộc đối thoại giữa chị Dậu – Cai lệ – Bọn người nhà lý Trưởng + Phân tích cuộc đối thoại ( từ ngữ xưng hô)-> hành động bọn cai lệ -> không có chút tình người.
+ Cai lệ – người nhà lý trưởng đến trói, đánh, bắt anh Dậu đang trong tình trạng ốm đau vì đòn roi, tra tấn, ngất đi - tỉnh lại -> Chị Dậu chuyển thành hành động.
-> Đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành động chị Dậu.
=> Quy luật: “Tức nước vỡ bờ”- “có áp bức có đấu tranh”
4. Ý nghĩa:
* Giá trị hiện thực:
- Lột trần bộ mặt giả nhân của chính quyền thực dân.
* Giá trị nhân đạo
- Ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Chị Dậu.
* Giá trị tố cáo
- Thực trạng cuộc sống của người nông dân Việt Nam bị đẩy đến bước đường cùng ( liên hệ với lão Hạc, Anh Pha ( Bước đường cùng )).
-Hành động vô nhân đạo không chút tình người của bọn tay sai.
5. Mở rộng nâng cao vấn đề
- Liên hệ số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến .
* Kết bài
- Khẳng định quy luật phát triển hoàn toàn tự nhiên -> đúng với sự phát triển tâm lý của con người.
- Cảm nghĩ của bản thân em.
Tham Khảo
Câu 3 :
Chị Dậu có thể coi là hiện thân đầy đủ nhất những nét tính cách của người phụ nữ Việt Nam. Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn trước Cách mạng, bằng sự am hiểu tâm lí người nông dân và những diễn biến tâm lí trong họ, ông đã xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu mang trong mình một sức sống tiềm tàng mãnh liệt và tình yêu thương gia đình vô bờ.
Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Đoạn trích tức nước vỡ bờ trích trong chương XVIII của tác phẩm. Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn văn đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong khiến đương thời; xã hội ấy đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ, khiến họ phải liểu mạng chống lại và đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiền tàng mạnh mẽ.
Nhân vật chị Dậu là trung tâm của đoạn trích, đoạn trích mở đầu bằng cảnh tiếng trống và tiếng tù và thúc thuế ngày càng đến gần, tiếng chó sủa vang và anh Dậu vừa được đưa từ đình về trong tình trạng hấp hối. Anh Dậu bị bắt bởi chưa nộp đủ suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật cùng đường và vô lí hết sức. Người chết vẫn phải nộp sưu, cái xã hội thực dân phong kiến đeo vào cổ người dân nghèo hai tròng, bóc lột họ mọi đường. Anh Dậu bị hành hạ thành như một cái xác chết mới được khiêng trả về và giờ đây chị Dậu đang được bà hàng xóm cho chút gạo nấu bát cháo loãng cho anh Dậu ăn cho lại sức. Chị Dậu ân cần chăm sóc anh Dậu, mong anh mau khỏe lại. Qua lời nói của chị “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Tình yêu thương của chị Dậu thể hiện cả ở chỗ ấy. Người phụ nữ Việt Nam xưa nay vẫn luôn thế, dù trong hoàn cảnh nào vẫn thủy chung yêu thương gia đình, yêu thương chồng. Tấm lòng giàu tình yêu thương của Chị Dậu là tiêu biểu đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam.
Nhưng đúng với nhan đề “Tức nước vỡ bờ”, khi bọn cai lệ sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước cùng dây sừng. Chúng thể hiện rõ sự hung ác và bạo ngược của bọn thống trị khiến anh Dậu hoảng quá lăn đùng ra. Bọn chúng đến để bắt anh Dậu nếu chị Dậu không nộp đủ suất sưu còn lại của em chồng đã chết. Chị dậu run sợ và thiết tha cầu xin chúng cho khất thêm vào ông “Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” Chị hạ giọng, xưng cháu, gọi ông cho thấy chị rất hạ mình cầu xin nhưng bọn lí trưởng vẫn một mực không hề động lòng. Khi chúng sấm sầm chạy đến chỗ anh Dậu với cái dây thừng thì chị Dậu đã van nài chúng “Cháu van ông, nhà chàu mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”. Thế nhưng tên cai lệ hung dữ đẩy chị ra và bịch luôn vào ngực chị mấy bịch “Tha này, tha này!” rồi lại sấn đến trói anh Dậu. Lúc này bi kịch đã đến đỉnh điểm cao trào, từ xưng hô “cháu-ông” với bọn chúng, chị chuyển xưng hô ngang hàng, liều mạng cự lại “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Chị đã qua tức giận trước hành động ngang ngược của lũ cai lệ, nhưng một lần nữa cai lệ lại tát vào mặt chị đáp bốp. Cái tát này thực sự đã khiến “tức nước vỡ bờ”, ôi thôi cái gì cũng chỉ có giới hạn, khi này chị Dậu đã nghiến hai hàm răng “Mày trói chồng bà, bà cho mày xem!” Chị đã chống cự lại và đánh trả chống khiến chúng được một phen hoảng sợ và bỏ chạy.
Sức sống trong chị Dậu vẫn luôn tiềm tàng, ẩn nhẫn chờ ngày bùng phát. Chị đấu tranh cho công lí, cho lẽ phải dù chị biết như vậy có thể sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nhưng mặc kệ, chị đã dõng dạc nói “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…” Câu nói thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của chị. Trải qua từng lần thay đổi xưng hô, cao trào của truyện lại lên một mức cao hơn chỉ chờ bộc phát. Giống như tức nước vỡ bờ! Sự vùng dậy phản kháng của chị Dậu cũng là dấu hiệu của sự vùng dậy của nông dân ta dưới sự áp bức của lũ cường hào ác bá ở xã hội thực dân phong kiến.
Hình tượng chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ mang trong mình một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác, cùng với đó là tấm lòng giàu yêu thương của một người phụ nữ. Ngô Tất Tố đã thành công xây diễn tả được cái khổ, cái khó đến cùng cực của người dân ở một nước thuộc địa. Thể hiện tiếng nói phản đối lại bất công, cường quyền. Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thực dân cướp đi quyền sống của con người.