nội dung và nghệ thuật bài thơ TRÀNG GIANG
help me
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Nội dung: Bức tranh cảnh vật làng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Thiên nhiên và con người hòa quyện một cách nên thơ. Qua đó, ta thấy cái nhìn "vãn vọng" của vị vua thi sĩ có tâm hồn gắn bó máu thịt với cuộc sống bình dị...
- Nghệ thuật: + Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo.
+ Nhịp thơ êm ái, hài hòa.
+ Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa.
1. Căn cứ vào nội dung câu hát có thể thấy: bài ca dao thứ nhất là lời của người mẹ hát ru con, bài thứ hai là lời của người con gái lấy chồng xa quê nói với mẹ, bài thứ ba là lời của con cháu đối với ông bà, bài thứ tư là lời của cha mẹ dặn dò con cái hoặc lời anh em tâm sự với nhau.
2. Bài 1, tác giả ví công cha, nghĩa mẹ như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên để so sánh, làm nổi bật ý nghĩa: công ơn cha mẹ vô cùng to lớn, không thể nào cân đong đo đếm hết được. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng. Đây cũng là một nét tâm thức của người Việt. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ như hình ảnh cha nhưng sâu xa hơn, rộng mở và gần gũi hơn. Đối công cha với nghĩa mẹ, núi với biển là cách diễn đạt quen thuộc, đồng thời cũng làm cho các hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao hơn.
3. Ngày xưa, do quan niệm "trọng nam khinh nữ", coi "con gái là con người ta" nên những người con gái bị ép gả hoặc phải lấy chồng xa nhà đều phải chịu nhiều nỗi khổ tâm. Nỗi khổ lớn nhất là xa nhà, thương cha thương mẹ mà không được về thăm, không thể chăm sóc, đỡ đần lúc cha mẹ đau ốm, bệnh tật.
Nỗi nhớ mẹ của người con gái trong bài ca dao này rất da diết. Điều đó được thể hiện qua nhiều từ ngữ, hình ảnh:
- Chiều chiều: không phải một lần, một lúc mà chiều nào cũng vậy.
- Đứng ngõ sau: ngõ sau là ngõ vắng, đi với chiều chiều càng gợi lên không gian vắng lặng, heo hút. Trong khung cảnh ảm đạm, hình ảnh người phụ nữ cô đơn thui thủi một mình nơi ngõ saucàng nhỏ bé, đáng thương hơn nữa.
- ruột đau chín chiều: chín chiều là "chín bề", là "nhiều bề". Dù là nỗi đau nào thì cái không gian ấy cũng làm cho nó càng thêm tê tái. Cách sử dụng từ ngữ đối xứng (chiều chiều - chín chiều) cũng góp phần làm cho tình cảnh và tâm trạng của người con gái càng nặng nề, đau xót hơn.
4. Bài 3 diễn tả nỗi nhớ và sự yêu kính đối với ông bà. Để diễn đạt những tình cảm ấy, tác giả dân gian đã dùng biện pháp tu từ so sánh: nỗi nhớ được so sánh như nuộc lạt buộc trên mái nhà (rất nhiều).
Cái hay của cách diễn đạt này nằm ở cách dùng từ “ngó lên” (chỉ sự thành kính) và ở hình ảnh so sánh: nỗi nhớ – nuộc lạt trên mái nhà. Hình ảnh “nuộc lạt” vừa gợi ra cái nhiều về số lượng (dùng cái vô hạn để chỉ nỗi nhớ và sự yêu kính ông cha) vừa gợi ra sự nối kết bền chặt (tình cảm máu mủ ruột rà, tình cảm huyết thống của con cháu với ông cha).
5. Bài 4 là những câu hát về tình cảm anh em. Anh em là hai nhưng cũng là một, vì: “Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân” (cùng một cha mẹ sinh ra, cùng chung sống, cùng chung buồn vui, sướng khổ). Quan hệ anh em còn được ví với hình ảnh chân – tay (những bộ phận gắn bó khăng khít trên một cơ thể thống nhất). Hình ảnh đó nói lên tình nghĩa và sự gắn bó thiêng liêng của anh em.
Bài ca dao là lời nhắc nhở chúng ta: anh em phải hoà thuận, phải biết nương tựa lẫn nhau thì gia đình mới ấm êm, cha mẹ mới vui lòng.
- Nhan đề “Tràng giang” với vần “ang” ở hai tiếng gợi ra không gian bất tận, mênh mông cả về chiều dài và chiều rộng của con sông. Vần “ang” kéo dài vô tận như nỗi niềm sầu muộn, suy tư của Huy Cận khi đứng trước sự mênh mông, vô định của dòng sông.
⇒ Nhan đề “Tràng giang” không chỉ góp phần hé mở nội dung bài thơ mà tràng giang còn chứa đựng được bao tâm sự, nỗi niềm thầm kín của Huy Cận về cuộc đời thế sự.
- Nội dung: Là bức tranh thiên nhiên và con người giao hòa. Ca ngợi vẻ đẹp thanh tĩnh, nên thơ của Côn sơn, qua đó bộc lộ cốt cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của Nguyễn Trãi.
- Nghệ thuật:
• Đan xen các câu thơ tả cảnh và tả người
• Lời thơ trong sáng, giọng điệu nhẹ nhàng, êm ái
• Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: So sánh, điệp ngữ
• Bản dịch thơ sử dụng thể thơ lục bát, tạo ra vần điệu nhịp nhàng, sinh động
1. Nội dung:
- Bức tranh thiên nhiên mênh mông vô biên và quạnh hiu, hoang vắng.
- Cái tôi lữ thứ bơ vơ, cô đơn, lạc lõng mang một nỗi buồn vô tận trước trời, nước. Đó cũng là biểu hiện kín đáo của tình yêu nước trong những ngày tháng mất chủ quyền.
2. Nghệ thuật:
* Đề tài, cảm hứng:
- Cổ điển: Thể hiện nỗi sầu vạn cổ, nỗi sầu thế nhân của con người khi đứng trước thiên nhiên lớn rộng, thiên nhiên vô cùng vô tận.
- Hiện đại: Không chỉ là nỗi buồn thế nhân mà còn là nỗi buồn cá nhân trong thời điểm hiện tại của đất nước – đất nước ta mất chủ quyền, người dân phải sống trong tình cảnh nô lệ.
* Chất liệu thi ca:
- Cổ điển:
+ Dùng nhiều thi liệu truyền thống: “tràng giang”, “bến cô liêu”, “cánh chim chiều, cánh bèo dạt”,…
+ Hệ thống từ láy.
+ Hệ thống từ Hán Việt.
- Hiện đại:
+ Nhiều hình ảnh sáng tạo chân thực của đời thường: “củi một cành khô”, “bờ xanh tiếp bãi vàng”…
+ Những kết hợp từ mới lạ: “buồn điệp điệp”, “sâu chót vót”…
+ Những từ láy sáng tạo: “dợn dợn”…
* Thể loại, bút pháp:
- Cổ điển:
+ Thể thơ thất ngôn đặc trưng với những luật của thơ Đường.
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Hiện đại:
+ Thất ngôn nhưng lại là thất ngôn trường thiên, có ý thức chia khổ.
+ Con người không bị ẩn đi, chìm khuất trước thiên nhiên mà bộc lộ trực tiếp cái tôi, tâm tư tình cảm của mình.