K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nhìn vào quá trình phát triển lịch sử của loài người, chúng ta thấy rất rõ vai trò và tác dụng của ngôn ngữ. Trước hết là lao động, sau đó đồng thời với lao động và ngôn ngữ - đó là hai động lực chủ yếu trong sự phát triển của loài người nguyên thủy. Cùng với sự phát triển của tư duy, của ý thức, ngôn ngữ đã góp phần hoàn thiện con người, phân biệt con người với con vật. Dần dần, loài người xây dựng nên các cộng đồng chung về ngôn ngữ từ thấp lên cao về mặt tổ chức xã hội như thị tộc, bộ lạc, dân tộc. Về sau này, khi đã xuất hiện quốc gia, thì ý thức về một quốc gia thống nhất bao giờ cũng gắn bó với ý thức về một ngôn ngữ quốc gia chung. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta, kể từ thời dựng nước được thế giới biết đến qua nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ với hiện vật tiêu biểu trống đồng, trải qua hàng năm cho đến ngày nay, nếu xét riêng về mặt ngôi ngữ thì có thể nói rằng đó là lịch sử người Việt Nam, cùng nhau xây dựng, thống nhất và phổ biến tiếng Việt trong cương vị ngôn ngữ dùng chung trên toàn lãnh thổ đất nước ta.

Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn hóa, kinh tế...) Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trong suốt lịch sử lâu dài đấu tranh vì chủ quyền dân tộc, vì độc lập tự do của đất nước, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam ta đã phấn đấu gian khổ như thế nào để thoát được hiểm họa diệt chủng về ngôn ngữ và văn hóa, để bảo vệ và phát triển được tiếng Việt, như Bác Hồ nói, "Thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc".

Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội. Chính tiếng Việt, ở mặt nội dung ý nghĩa của nó, là nơi ghi lại, nơi phản ánh chủ yếu những tri thức, kinh nghiệm, những suy nghĩ, quan niệm v.v... từ ngàn đời của cha ông ta về mọi mặt của đời sống dân tộc, về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người. Cùng với quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiếng Việt cũng hình thành và phát triển, ngày nay đã trở thành một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú và độc đáo; đó là một công cụ rất có hiệu lực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều quan trọng nhất là mỗi chúng ta có ý thức sâu sắc về sự giàu đẹp của tiếng Việt, có tình cảm của người Việt Nam ta biết yêu và quý tiếng nói của dân tộc, nói rộng ra thì đó là ý thức và tình cảm đối với văn hóa dân tộc mình, đối với đất nước mình, nhân dân mình.

Ngôn ngữ nào cũng có hai chức năng chủ yếu, là phương tiện quan trọng nhất trong sự giao thiệp giữa người với người và là phương tiện, là công cụ của tư duy. Trên thế giới, có nhà ngôn ngữ học đã ví ngôn ngữ như là một thứ chất kết dính hết sức đặc biệt, hết sức quan trọng, vì ở đâu cũng thấy có mặt nó, trong kinh tế, trong văn hóa, trong xã hội, trong mọi mặt vật chất, tinh thần của cuộc sống con người, bình thường và quen thuộc như nước ta uống, như không khí ta thở vậy. Vì thế, muốn xây dựng và phát triển con người, xây dựng và phát triển xã hội, xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta không thể không phát triển tiếng Việt, công cụ giao tiếp, công cụ tư duy, công cụ phát triển của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Tại Hội nghị khoa học "Gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" họp ngày 29-10-1979 ở Hà Nội, tôi đã nhấn mạnh vai trò và tác dụng của công việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hóa nó, để phục vụ sự phát triển trí tuệ con người Việt Nam, sự phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Tôi nghĩ rằng đó chính là lý do sâu xa vì sao chúng ta cần phải có sự quan tâm đầy đủ đến tiếng Việt, đặc biệt là hiện nay, ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Tôi dừng lại ở đây là chỗ thích hợp nhất để trình bày một quan điểm rất quan trọng về quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Chúng ta còn nhớ Các Mác và Ph.Ăng-ghen, sau khi phác họa học thuyết vĩ đại của mình là duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, đã có một câu nói mà tôi cần trích nguyên văn: "Khi hiện thực đã được trình bày như đích thực nó như vậy (bởi các khoa học, và các khoa học ấy chứng minh duy vật biện chứng lịch sử), thì triết học không còn chỗ nào để tồn tại nữa". Ăng-ghen nói rõ thêm: "Khi khoa học tự nhiên và khoa học lịch sử đã thấm nhuần biện chứng thì tất cả các món hàng triết học cũ trở thành đồ thừa, trừ lý luận về tư duy (tức là duy vật biện chứng lịch sử - P.V.Đ)". 
Ở đây chúng ta phải thấy một cách sâu sắc nhất và phong phú nhất sự liên quan mật thiết giữa ngôn ngữ và tư duy hoặc ngược lại giữa tư duy và ngôn ngữ, bởi cái này là nhân tố của cái kia hoặc ngược lại. Đó là hai cái đòn xeo quý báu không ngừng nâng cao hiểu biết của con người trong quá trình đi lên giải quyết các vấn đề của cuộc sống trên mọi lĩnh vực, từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ đời này đến đời khác. Trong thời đại ngày nay, thời đại của sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học: khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, sự phát triển tư duy có liên quan đến sự phát triển của toàn cầu hóa cuộc sống mọi con người, mọi dân tộc, thì chúng ta càng thấy tầm quan trọng của ngôn ngữ và tư duy. Chỉ có đặt vấn đề như vậy thì đề tài của bàI viết này mới có đầy đủ tầm vóc, chiều sâu và chiều rộng của nó, xứng đáng với giá trị của nó. ở đây tôi chỉ gợi mở quan điểm để mở rộng chân trời của vấn đề, từ đó có thể có sự nhận thức mới, gắn liền với tìm tòi mới, hiểu biết mới của biết bao người trong lĩnh vực ngôn ngữ và tư duy của Việt Nam.

biện pháp 

 Trước khi nói đến biện pháp, tôi nghĩ phải thấy được nguyên nhân từ phía chúng ta, vì nói đến giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ, chuẩn hóa nó, phát triển nó - là nói đến tác động tích cực của con người vào quá trình phát triển của ngôn ngữ.

Nói đến con người ở đây, trước hết là mỗi người Việt Nam chúng ta, những người dùng tiếng Việt; các nhà giáo, các nhà văn, nhà báo, các nhà ngôn ngữ học, và rất quan trọng là vai trò lãnh đạo, hoạch định các chính sách về ngôn ngữ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Trong tiếng Việt bây giờ có những biểu hiện không tốt, thiếu trong sáng, sai chuẩn mực, trước hết là do chúng đã coi nhẹ, thậm chí buông lỏng, thả nổi công việc quan trọng này. Chúng ta đã không đầu tư thích đáng trí tuệ, công sức và tiền của để nghiên cứu lý luận và điều tra thực tế về những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và phát huy bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt. Việc tổ chức thực hiện nhìn chung cũng chưa tốt. Nhưng ở đây quan trọng nhất vẫn là nhận thức, là tình yêu, là lòng quý trọng và thái độ đối với tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Mỗi người chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ và phát huy sự trong sáng của nó, không thể tùy tiện, càng không thể để mất gốc, để tiếng Việt bị hoen ố, ô nhiễm.

Về biện pháp thì hiện nay có hai phạm vi quan trọng nhất là nhà trường và xã hội. ở đây cần có những biện pháp đồng bộ, thiết thực. Cụ thể là cần phải:

Chấn chỉnh việc dạy và học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông và đại học; cũng như việc sử dụng tiếng Việt trên sách báo, truyền thanh, truyền hình, thông tin điện tử; 
Tăng cường việc biên soạn các sách công cụ về tiếng Việt, nhất là sách Ngữ pháp và Từ điển; 
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về chuẩn hóa, về phát triển ngôn ngữ; 
Tập trung điều tra khảo sát đời sống ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, nhất là chiều hướng phát triển từ 1975 đến nay. 
Riêng đối với Nhà nước thì cần có càng sớm càng tốt một Hội đồng quốc gia về ngôn ngữ, để chăm lo về tiếngViệt, các tiếng dân tộc thiểu số, cũng như về công việc giảng dạy và sử dụng tiếng nước ngoài trên đất nước ta.

Trên đây, tôi đã nêu ra một số suy nghĩ về những vấn đề theo tôi là quan trọng, cần được chú trọng công việc giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt. Để kết thúc một cách có ý nghĩa bài viết "Trở lại vấn đề: Vì sự trong sáng và phát triển của tiếngViệt", tôi muốn liên hệ nó với tình hình hiện nay của nước ta. Tiếng Việt của chúng ta có hai đặc tính rất quý là giàu và đẹp, tự bản thân nó là trong sáng; tiếng Việt sẽ gàu và đẹp hơn nữa nếu chúng ta cố gắng làm tốt việc giữ gìn nó, sử dụng nó và phát triển nó. Với giá trị bản sắc, tinh hoa của nó, tiếng Việt sẽ góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến lên xây dựng từng bước chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chính công cuộc đổi mới toàn diện mà chúng ta đang tiến hành, nói rộng ra là toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, sẽ tác động trở lại, làm cho tiếng Việt ngày càng phát triển hơn, vậy nghĩa là có mối quan hệ rất khăng khít giữa sự trong sáng của tiếng việt, giữa vai trò và tác dụng của nó trong đời sống xã hội với sự tiến lên của đất nước ta trong thế kỷ tới. Chúng ta cần thấy rõ điều đó để phấn đấu thực hiện cho được một nhiệm vụ cao quý và thiêng liêng là bảo vệ sự trong sáng và phát triển tiếng nói của dân tộc Việt Nam ta.

1. Về các từ "đế chế" và "đế quốc"

Có người dùng những từ ngữ "nước đế quốc", "Chủ nghĩa đế quốc" thay cho từ "đế chế La Mã"; Thí dụ: "Đế quốc La Mã" thay cho từ "đế chế La Mã". Tất nhiên, những từ này đều có chung gốc ngôn ngữ là chữ "đế", nhưng nếu đi sâu vào tìm hiểu về thời điểm lịch sử của chúng, về sự hình thành của chúng, về tính chất và tác dụng của chúng. Thì rất dễ thấy những khác nhau cực kỳ to lớn và sâu xa, không thể nhầm lẫn được. Phải nói là: "đế chế Lã Mã", "đế chế ốttôman", "đế chế Nga", "đế chế Trung Hoa". Có nước như nước Anh vừa là đế chế, vừa là đế quốc.

2. Về các từ "đảng viên" và "quần chúng"

Trước đây khá thông thường bây giờ có ít hơn nhưng vẫn còn nhiều người nói và viết như sau: A là đảng viên; còn B, C, Đ là quần chúng, ý muốn nói rằng người nào không phải đảng viên thì là quần chúng. Tuy nhiên nói như thế có nghĩa là coi quần chúng là dưới đảng viên, hạ thấp vị trí chính trị, ý nghĩa và tác dụng của quần chúng là đông người, nói một người là quần chúng thì không đúng. Phải nói: A là đảng viên; còn B, C, Đ là người ngoài Đảng.

3. Về từ "tên"

Trước đây nhiều người hay dùng, nay có ít hơn, nhưng vẫn còn người dùng từ này với ý nghĩa miệt thị, đặt trước tên riêng của các nhân vật phản động, đối tượng của cách mạng hay những kẻ làm việc xấu xa; thí dụ: tên Hitle. Đáng lẽ chỉ nên gọi Hitle là "Hitle", mà như thế nó vẫn cứ là Hitle với tất cả tội ác của nó trong lịch sử nước Đức và lịch sử của loài người. Lúc tôi viết những cuốn sách đầu tiên về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối viết tên Bác mà không kèm theo chức danh cao quý gì (cũng như chúng ta từ lâu đã quen dùng cách xưng gọi "Các Mác", "Ăng-ghen", "Lê-nin") thì có những đồng chí bày tỏ với tôi tâm trạng nghẹn ngào, khó chịu. Đến ngày nay, nếu nói: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân trong lịch sử nước ta và lịch sử thế giới, thì cũng còn có người chưa yên tâm, chưa thoải mái lắm.

4. Về từ "chính xác"

Về từ này người ta không nói và viết một cách không hợp lý, không biết đâu là chuẩn mực, hằng ngày ở đâu cũng nghe từ này với ý nghĩa cơ bản là "đúng", "trúng"... Vừa qua, nhân sinh nhật bác sĩ Phạm Ngọc Thạch do Bộ Y tế tổ chức, trong bài viết của mình tôi có kể lại lối tiếp xúc người bệnh của Phạm Ngọc Thạch. Khi vào Viện lao khám bệnh, Phạm Ngọc Thạch áp tai mình vào ngực người bệnh để nghe chứ không dùng ống nghe, và tôi có viết rằng Phạm Ngọc Thạch làm như vậy để nghe được "thực" hơn. ở đây chữ "thực" tôi dùng có ý nghĩa là trong trường hợp nào đó và trong chừng mực nào đó thì máy móc không "thực" bằng tai của người thầy thuốc. Đối với người thầy thuốc thì "thực" là quan trọng. Nhưng sau đó người ta sửa từ "thực" thay bằng từ "chính xác". Tôi có biết điều này, tuy nhiên tôi không đề nghị đổi lại, mà để hôm nay mới nói; tôi nghĩ viết và nói cho đúng, cho sáng không phải chuyện dễ dàng.

5. Về các từ "lớn" và "vĩ đại"
Nhiều người nói và viết một cách lẫn lộn, không có sự phân biệt hai từ này. Người ta có thể nói và viết: "nhà văn lớn", "nhà khoa học lớn"; bởi lẽ những người đó có trình độ và có cống hiến quan trọng trong nghề nghiệp của mình. Nhưng ở đây nếu dùng từ "vĩ đại" để đánh giá thì không đúng, không phù hợp, vì từ "vĩ đại" chỉ dùng cho một số ít người có cuộc đời và đức độ rất cao đẹp, có trí tuệ, tài năng và những cống hiến có giá trị và tầm cỡ to lớn, đáng kính phục.

6. Về cách ghép từ

Đây là một hướng làm giàu cho vốn từ tiếng Việt mà theo ý tôi nó rất thú vị như: "nuôi trồng", "xây lắp", "truy quét", "sao chụp"... Tuy nhiên không thể tùy tiện muốn ghép thế nào cũng được. Ví dụ: tiếng ta có các từ ngữ "y sĩ", "bác sĩ", "khám bệnh", "chữa bệnh"; nhưng có người lại muốn gán ghép thành: "y, bác sĩ", "khám, chữa bệnh" (hoặc trong các lĩnh vực khác như "chiến thuật", "kỹ thuật"), "kỹ thuật" thành "chiến, kỹ thuật". Mọi người có thể kể ra nhiều ví dụ khác về cách nói, cách viết rất sai như thế. điều này thường gây khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt; lúc gặp những từ ngữ ghép lại như vừa nói họ phải tra từ điển, nhưng không có cuốn từ điển nào về tiếng Việt có những từ ngữ như vậy.

Tóm lại, ở đây tôi muốn đề cập một vấn đề chung là từ ngữ, hoặc một số từ ngữ nào đó có cách dùng thông thường của nó, cách dùng đúng chuẩn của nó, gắn với lịch sử của nó, với bối cảnh xã hội của nó, không thể tùy tiện vượt qua theo ý riêng của mình.

Tiếng Việt là tài sản vô cùng quý giá, nó không chỉ là phương tiện quan trọng trong các hoạt động giao tiếp mà còn được ví như một thứ “căn cước” của nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập đã và đang xuất hiện những biến tướng, lai căng cần phải được xem xét chấn chỉnh, định hướng kịp thời để bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

26 tháng 3 2021

OK ok, Thanks Nhó!! vui

16 tháng 12 2020
15 tháng 4 2020

Câu nói của thầy Ha-men "... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù...". Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đáp bầng sự sáng tạo cùa bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.

Chúc bạn học tốt 

21 tháng 4 2020

cảm ơn bạn nhé

chúc bạn học tốt

Bình luận ý kiến sau đây:Hãy nghe một thanh niên nông thôn rồi nghe bà mẹ của anh hay ông nội của anh nói chuyện ta sẽ hiểu ai là người có tiếng nói giàu hình ảnh, sắc màu. Chỉ một chuyện cây lúa thôi, mà biết bao là sáng tạo về ngôn ngữ:Gió đông là chồng lúa chiêmGió bấc là duyên lúa mùaĐược mùa lúa, úa mùa cauĐược mùa cau, đau mùa lúaChiêm khôn hơn mùa dạiMùa nứt nanh, chiêm xanh...
Đọc tiếp

Bình luận ý kiến sau đây:

Hãy nghe một thanh niên nông thôn rồi nghe bà mẹ của anh hay ông nội của anh nói chuyện ta sẽ hiểu ai là người có tiếng nói giàu hình ảnh, sắc màu. Chỉ một chuyện cây lúa thôi, mà biết bao là sáng tạo về ngôn ngữ:

Gió đông là chồng lúa chiêm
Gió bấc là duyên lúa mùa
Được mùa lúa, úa mùa cau
Được mùa cau, đau mùa lúa
Chiêm khôn hơn mùa dại
Mùa nứt nanh, chiêm xanh đầu
Lúa chiêm nép ở đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.

   Cô kĩ sư nông học ơi, nếu ngày nay cô không nói được tiếng nói như vậy nữa, thì cô có thu được mùa lúa, nhưng đã bỏ mất cả một mùa ngôn ngữ đẹp đẽ của dân tộc đấy. Bởi thế, tôi muốn, đồng thời với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, phải giữ gìn sự giàu có, muôn vàn giàu có của nó.

Trong thói quen, chúng ta hay tự ti; khẳng định lại một lần nữa sự giàu có của tiếng nói dân tộc, cũng là một điều quan trọng chứ sao.

(Chế Lan Viên, Làm cho tiếng nói trong sáng, giàu và phát triển, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Sđd)

1
7 tháng 8 2017

Nhà thơ Chế Lan Viên muốn khẳng định, tiếng Việt chúng ta rất phong phú, trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt

Điều này thể hiện rõ trong tiếng nói của người nông dân, người lao động, cha ông ta thời xưa

→ Chính vì vậy muốn bảo tồn được sự giàu có của tiếng Việt cần trau dồi vốn từ.

17 tháng 2 2020

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực.

Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việtnhư Internet, trang web…, song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.

Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng” và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.

Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng khá phổ biến và được gọi là nói “tiếng lai”. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào cứu quốc, nâng cao tinh thần dân tộc thôi thúc sinh viên, học sinh từ bỏ cách nói chen tiếng Pháp. Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Ví dụ như vì sao báo chí, hay thậm chí cả trong văn bản chính thức của nhà nước, thường dùng cụm từ “người tham gia giao thông” thay cho “người đi đường”?

Thực tế, người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông”. Người ta thường dặn dò nhau “đi đường phải cẩn thận” chứ chẳng ai nói “tham gia giao thông phải cẩn thận” bao giờ! Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

27 tháng 8 2016

Ý 2:

Điều bạn có thể làm 
Thứ nhất, dù bạn bè làm gì đi nữa thì hãy hiểu rằng chính bạn mới là người phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. 

Thứ hai, hãy nhận ra áp lực nào có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với bạn. 

Kế tiếp, hãy tự hỏi: “Bạn gặp nhiều áp lực nhất là khi nào?” (Khi ở trường học? Sở làm? Nơi khác?). Biết được khi nào áp lực xảy ra có thể giúp bạn tránh khỏi điều đó.

Thứ ba,Từ chối ngay. Nếu là cùng hoặc nhỏ tuổi hơn thì nên khuyên nó xem thế nào hoặc biết người thân của nó thì báo cho họ. Nếu lớn hơn mình thì nên tránh mặt hoặc bảo người thân của mình.

27 tháng 8 2016

Tại sao chúng ta nên gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc? Đây là một đề tài nhàm chán theo kiểu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Tất cả các kênh truyền thông chính thống đều ra rả kêu gọi giới trẻ quay trở về với những giá trị truyền thống và cố gắng cưỡng ép đưa những chi tiết “đậm đà bản sắc dân tộc” vào chương trình của mình. Thế nhưng có vẻ như điều này vẫn vô vọng, giới trẻ đa số vẫn thờ ơ với truyền thống.

Truyền thống không phải lúc nào cũng đều đúng và thật sự cần thiết. Truyền thống là một dạng khuôn mẫu của các thói quen được lặp đi lặp lại, và thói quen thì có thể thay đổi theo sự luân chuyển của thời đại. Đó là lý do tại sao rất nhiều những truyền thống dân tộc rất khó để gìn giữ khi có sự va chạm văn hóa với các dân tộc khác, và nhất là trong thời đại “thế giới phẳng” như ngày nay. Nhiều truyền thống đã mất đi như mặc áo tứ thân, nhuộm răng đen, tóc búi tó…  Nỗ lực khôi phục những loại hình văn hóa dân tộc như ăn trầu cau, nghe ca trù, xem hát chèo, …v…v… gần như bất khả thi. Vì rõ ràng ở thời đại ngày nay, chúng ta đã mất đi thói quen với những truyền thống này. Gìn giữ chúng, ghi chép lại chúng, như một sự bảo tồn, điều này khả thi hơn. Tuy nhiên có những truyền thống không cần cố công gìn giữ, chúng vẫn cứ tồn tại. Ví dụ như việc ăn cơm, cho dù KFC, Pizza, mỳ Ý… có ngon đến mấy, thì người Việt vẫn thích ăn cơm. Tại sao vậy? Vì ở một xứ nhiệt đới như Việt Nam, nếu ăn thường xuyên các sản phẩm làm từ lúa mì sẽ dẫn đến hiện tượng nóng trong người và khó tiêu hóa. Hơn thế nữa, thời tiết nóng ẩm gây ra nhiều bệnh tật, người Việt cần tăng sức đề kháng của cơ thể, sức đề kháng này có được từ hàm lượng B1 rất lớn có trong hạt gạo. Truyền thống này chỉ có thể thay đổi nếu có sự dịch chuyển lục địa ở một tương lai rất xa. Vậy thì, những truyền thống nào có sự gắn bó mật thiết đến sự sinh tồn của cộng đồng người thì đó là những truyền thống khó có thể lay chuyển. Tuy nhiên, ở bài viết này, tôi muốn nói đến một số truyền thống nên được giữ gìn như một sự tạo dựng vẻ đẹp tâm thức của người Việt. Đây thường là truyền thống có ý nghĩa về mặt tinh thần, một dạng tâm thức chung, nét tính cách căn bản của dân tộc.

Truyền thống tinh thần từ đâu mà có

Nếu nhìn ở góc độ duy vật, ta sẽ thấy rằng, truyền thống tinh thần là sự đúc kết các kinh nghiệm sinh tồn và phát triển cộng đồng của tổ tiên chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là kinh nghiệm ứng xử giữa con người với tự nhiên, con người cùng một dân tộc,  giữa dân tộc mình với dân tộc khác – kinh nghiệm của chữ “nhẫn”

Người Trung Quốc cười nhạo chữ “nhẫn” này là hèn hạ và tiểu nhân, người phương Tây thì cho  rằng đây là biểu hiện của việc không có chí tiến thủ, nhưng “nhẫn” là cách duy nhất để người Việt chúng ta tồn tại cho đến nay. Việt Nam nằm trong một khu vực nhiều biến động khí hậu bất thường, vậy nên đối mặt liên tục với các tai họa tự nhiên đã trở thành điều quen thuộc, xây đắp dần nên khả năng chịu đựng gian khổ của người Việt. Bởi không chịu đựng thì không còn cách nào khác sinh tồn trên mảnh đất này. Hơn nữa, nước ta nằm cạnh đế chế Trung Hoa hiếu chiến và hùng mạnh, nếu không mềm dẻo trong ngoại giao và sử dụng cách đánh du kích để tỉa dần lực lượng của địch thì có lẽ từ lâu dân tộc chúng ta đã bị thôn tính như Hung Nô, Thổ Phồn, Tây Hạ, Mãn Thanh… rồi. Không thể đòi hỏi dân tộc ta giống các dân tộc ở phương Bắc và phương Tây. Người phương Bắc và người phương Tây là những nền văn minh được xây dựng bằng săn bắn và chiến tranh chiếm thành, chiếm đất. Họ liên tục trên lưng ngựa, họ cần tốc chiến tốc thắng, không có chỗ cho sự kiên nhẫn, bởi kiên nhẫn thì thời cơ sẽ đi qua. Nhịp sống của họ nhanh hơn chúng ta là điều hoàn toàn dễ hiểu.  Binh pháp của người Trung Hoa bàn về cách đánh thành, chiếm thành, lấy công làm thủ. Trong khi “Binh thư yếu lược” của Hưng Đạo Vương lại đưa ra kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), là dạng kế sách từ bỏ sĩ diện trước mắt, lánh bỏ kinh đô, trốn vào chỗ hiểm yếu và dần làm suy yếu quân lực của đối thủ. Đây là biểu hiện của chữ “nhẫn”.

Chữ “nhẫn” bên cạnh việc giúp chúng ta sinh tồn, còn giúp chúng ta tạo được gắn kết cộng đồng. Một người biết nhẫn là một người biết tiết chế sự cảm tính của bản thân, lùi lại một bước để nhận biết rõ thực tại, tìm ra cách ứng xử với xung quanh sao cho hợp lý. Nhiều học giả sùng bái phương Tây phê phán đức tính nhẫn nhịn  làm hạn chế tự do cá nhân, trói buộc người Việt Nam, tạo cho dân Việt sự giả dối trong hành xử. Điều này không sai, nhưng tầm nhìn của mấy học giả đó quá hạn hẹp. Cảm xúc của một người thuộc về người đó, họ có thể tự do bộc lộ khi ở không gian riêng của mình, tại sao lại phải bắt một ai đó khác chịu đựng. Nếu là cảm xúc tốt thì việc bày tỏ không vấn đề gì nhiều, nhưng cảm xúc tiêu cực khi bị bộc phát sẽ gây ra hiểu lầm và mâu thuẫn. Vậy bột phát cảm xúc với người khác, một kiểu hành xử rất phương Tây, không có ích gì nhiều với cộng đồng người Việt. Một dân tộc phải đối phó liên tiếp với thiên tai địch họa, cần nhất một chữ “hòa”, và “hòa” chỉ có thể đạt được khi chữ “nhẫn” được sử dụng.

Ở góc độ duy tâm, có một thứ được gọi là hồn thiêng sông núi, được hình thành từ dòng năng lượng của vùng đất nơi chúng ta đang sống. Hồn thiêng sông núi này ảnh hưởng trực tiếp đến tâm thức của con người sống tại đó. Nước ta là đất nước của sông hồ, năng lượng âm tính mạnh mẽ, tính nữ mạnh hơn tính nam, khác hoàn toàn với những vùng đất có nhiều núi đồi thảo nguyên như phương Tây. Bởi thế, dân tộc ta mang màu sắc của tính nữ, của sự mềm dẻo. Truyền thống tinh thần chịu sự chi phối của hồn thiêng sông núi, của dòng năng lượng chung mạnh mẽ này. Những người cố cưỡng lại dòng năng lượng này, học theo phương Tây hay Trung Quốc một cách mù quáng, nôn nóng muốn thành công bằng sức mạnh dương cương, chỉ nhanh chóng chuôc lấy bại vong. Tóm lại, “nhẫn” và “hòa” vẫn là những đặc tính dễ nhận biết của năng lượng tính nữ.

Gìn giữ truyền thống tinh thần là nền tảng tạo lập tương lai

Chúng ta có thể có trong đầu kiến thức của cả nhân loại nhưng ngu dốt về chính dân tộc mình thì chúng ta chỉ đưa nhau đến sự hỗn loạn. Bằng thế lực nọ hay vận may kia, ai đó có thể đạt được sức ảnh hưởng lên cộng đồng và tự đắc với quyền lực mình có trong tay, nhưng với sự ngu dốt này, họ sẽ đưa cộng đồng đến sự suy thoái không thể tránh khỏi trong mọi mặt của đời sống xã hội. Hiểu về truyền thống tinh thần là hiểu về cách thức tư duy của dân tộc. Nỗ lực thay đổi như một sự tẩy não, tạo lập một nếp tư duy chưa từng có cho người Việt là điều chắc chắn không thể. Vậy chúng ta có thể làm gì? Người hiểu biết sẽ chọn góc độ tích cực của truyền thống tinh thần và cải tiến cách biểu hiện nó cho hợp với thời đại. Chữ “nhẫn” cách đây 1000 năm, 100 năm chắc chắn khác với biểu hiện của chữ “nhẫn” ở thời hiện đại.

Khoa học công nghệ phát triển làm đời sống người dân được nâng cao, khả năng chống chọi với thiên tai cũng cao lên. Không nhất thiết chúng ta phải chịu đựng sự nghèo khổ và nói mãi về cái nghèo cái đói nữa. Nhưng chữ “nhẫn” này lại có giá trị trong đường lối phát triển kinh tế bền vững. Nhiều thập kỷ qua chúng ta đã lao theo lối làm ăn chộp giật, vì cái lợi trước mắt mà bỏ qua cái lợi lâu dài của cả dân tộc, thế nên chúng ta đã phải trả giá bằng một nền kinh tế ảo bắt chước phương Tây và Trung Quốc tràn ngập tham nhũng, hàng hóa kém chất lượng và nợ nần chồng chất.

Người ta nói rất nhiều về tôn trọng khác biệt, về tự do tư tưởng, về đa nguyên. Đó hoàn toàn là khái niệm vay mượn của phương Tây. Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì nếu hậu quả của nó là xung đột nhiều hơn, chia rẽ sâu sắc hơn? Không phải tôi phủ nhận những lý tưởng mà phương Tây theo đuổi và đang cố áp dụng điều đó ở Việt Nam. Tôi chỉ muốn nói rằng bắt chước phương Tây “không phải lối”, áp dụng mô hình một cách cứng nhắc mà không “Việt hóa” thì sớm muộn gì cũng quay trở lại cái thời “loạn 12 sứ quân” với phiên bản hiện đại. Ở một xã hội bảo vệ quyền khác biệt, cổ vũ tự do tư tưởng, một xã hội đa nguyên, càng cần lắm chữ “nhẫn” để tạo được sự hòa hợp và bền vững cho nền chính trị.

Đó chỉ là mộ vài ví dụ về cách thức biểu hiện của chữ nhẫn ở thời hiện đại, để bàn sâu hơn chắc phải dựa vào các chuyên gia mới có thể phân tích được. Qua đó ta có thể thấy, truyền thống tinh thần cũng giống như truyền thống sinh tồn, gần như không thể thay thế. Truyền thống tinh thần là một dạng màng lọc, loại bỏ đi những yếu tố không thích hợp với dân tộc, giữ lại những gì tinh túy thật sự có giá trị. Bất cứ mô hình chính trị, kinh doanh, giáo dục, thậm chí là các tôn giáo khi vào đến Việt Nam, nếu biết khai thác những điểm tương thích, khả năng duy trì sự thành công chắc chắn sẽ lâu dài hơn nhiều mô hình tổ chức khác.

Một cảnh trong phim "Mùa hè chiều thẳng đứng" - Đạo diễn Trần Anh Hùng

Một cảnh trong phim “Mùa hè chiều thẳng đứng” – Đạo diễn Trần Anh Hùng

Một số biểu tượng truyền thống tinh thần dân tộc cần bảo tồn

Phong tục cúng bánh chưng bánh dầy

Đây là một phong tục mang tính biểu tượng cao. Tại sao nhờ việc sáng tạo ra bánh chưng bánh dầy, Lang Liêu lại được thừa kế ngôi vua? Dù Lang Liêu có thể là truyền thuyết, vua Hùng có thể không có thật, nhưng không thể phủ nhận, cặp biểu tượng này mang màu sắc triết lý cao, thể hiện tầm tư tưởng của người sáng tạo.

Bánh chưng hình vuông, gói bằng lá dong xanh, vỏ bằng nếp, nhân bằng đậu xanh và thịt lợn. Đó là biểu tượng cho đất. Màu xanh là biểu hiện sự sinh sôi nảy nở của đất. Gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn là đại diện cho các loại thực vật, động vật. Tất cả được nén chặt thành hình vuông dẹt. Tại sao đất lại hình vuông? Đất hiểu theo nghĩa rộng hơn, chính là không gian. Người Việt Cổ đã nhận thức các mặt phẳng của không gian tạo thành các góc vuông 90 độ, bởi thế, đất có mang hình vuông. Đến cái lạt buộc bánh chưng cũng phần nào thể hiện cho chữ “nhẫn” của người Việt. Lạt làm từ cây giang, một cây mọc thẳng, cùng họ nhà tre, nhưng khi tước nhỏ ra lại trở thành một loại dây mềm dẻo và chắc chắn. Ấy vậy mà tục ngữ có câu “lạt mềm buộc chặt”.

Bánh dầy màu trắng và có hình tròn, tượng trưng cho trời. Trời đại diện cho thời gian. Người phương Đông cổ xưa quan niệm thời gian là luân hồi, chuyển động thời gian là một vòng tròn lặp đi lặp lại. Đến thời hiện đại, lý thuyết về không thời gian cong và thuyết tương đối của Einstein đã chứng minh được rằng nhận thức về thời gian của người phương Đông là đúng. Tại sao vòng trời lại có màu trắng? Màu trắng là màu của sự tinh khiết, màu nguyên bản của vạn vật, màu của tổng thể. Và bạn biết không, các nhà khoa học hiện đại đã làm một thí nghiệm, họ cho các ánh sáng nhiều màu hòa với nhau, kết quả là tạo ra ánh sáng trắng

Người Việt hiện đại không còn thắp hương bánh dầy, vì cho rằng không cần thiết, bánh dầy không có gì hấp dẫn. Họ quên mất rằng họ không cúng để họ ăn, họ cúng tế một biểu tượng. Trời phải đi với đất và con người ở giữa là trung gian tạo nên sự hòa hợp này. Chỉ cúng bánh chưng là biểu hiện của chủ nghĩa vật chất lên ngôi, một sự thái quá, làm mất đi cái thế “hòa” mà tổ tiên vẫn tạo dựng.

Phong tục thờ cúng gia tiên (những người đã khuất trong gia đình)

Chúng ta thờ rất nhiều: thờ Chúa, thờ Phật, thờ Thánh, thờ Qủy, thờ cả cái gốc cây có nhiều sự tích kỳ dị. Nhưng thờ gì thì thờ, kể cả tôn thờ chính bản thân mình, thì vẫn nên thờ gia tiên. Tại sao vậy? Đây có phải là một hình thức mê tín dị đoan? Nhiều người theo chủ nghĩa duy vật sẽ cho rằng chẳng có ích lợi gì, làm gì có linh hồn, đây chỉ là một thói quen tốn kém cần phải thay thế. Họ nghĩ thế cũng được, tôi vẫn nói rằng chúng ta nên giữ phong tục này.

Với người duy vật, tôi chỉ có thể nói ở khía cạnh đạo đức, thờ cúng gia tiên là một nghĩa cử  “uống nước nhớ nguồn”. Thờ cúng gia tiên nhắc nhở chúng ta về nguồn gốc của chúng ta. Nguồn gốc tạo cho chúng ta niềm tin để có thể gắn kết gia đình, dòng tộc, thành một khối vững chắc để tồn tại trong xã hội. Nếu không có phong tục này, nền tảng gia đình sẽ lung lay, và đám trẻ không ngần ngại gì mà không tống bố mẹ chúng vào trại dưỡng lão để làm nốt trách nhiệm.

Với người duy tâm có lẽ không cần phải bàn về điều này nhiều. Tôi sẽ không nói về quan niệm phù hộ độ trì nữa, điều này ai cũng biết rồi. Tôi sẽ nói ở khía cạnh năng lượng. Sự tưởng nhớ của con cháu với gia tiên làm tăng năng lượng linh hồn của người đã khuất trong dòng tộc. Khi phần âm của một dòng tộc có sức mạnh và mức độ cao trong tầng bậc năng lượng, nguyên lý cộng hưởng nghiệp khiến cho con cháu cũng được hưởng một phần phúc đức lớn của cha ông.

Trong các nghi lễ thờ cúng gia tiên, đòi hỏi sự tuần tự và kiên nhẫn. Ngay trong việc chuẩn bị nghi lễ và thực hiện nghi lễ chỉn chu, với tấm lòng thành kính, ngay tại đó, chúng ta sẽ hiểu được sâu sắc chữ “nhẫn” và chữ “hòa”. Chữ “nhẫn” hóa ra bẩn chất là sự khiêm tốn, biết vì mình mà cũng biết vì người. Chữ “hòa” hóa ra là nhận thức rõ ràng rằng vạn vật trong vũ trụ, mọi nhân tố trong xã hội đều có sự liên kết với nhau, nhìn ra sự liên kết ấy, cái “hòa” sẽ tự hình thành. Đây có thể là điều lý thuyết suông, nhưng các bạn hãy thử trải nghiệm tất cả các cảm giác này khi đứng trước bàn thờ gia tiên và tự tay thực hiện mọi nghi lễ, bạn sẽ biết được rằng điều tôi nói không phải là truyện kỳ ảo.

21 tháng 4 2021

Chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt trở thành chữ Quốc ngữ của nước ta cho đến ngày nay vì:

+ Đây là loại chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến và là công cụ thông tin rất thuận tiện.

+ Chữ quốc ngữ có vai trò quan trọng góp phần đắc lực vào việc truyền bá khoa học, phát triển văn hóa trong các thế kỉ sau, đặc biệt trong văn học viết.

Nhận xét

Ở thế kỉ 17 chữ Quốc ngữ theo mẫu tự latinh được sáng tạo. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử chữ Quốc ngữ vẫn được sử dụng trên đất nước ta ngày nay thể hiện:

+,Chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ chính của quốc gia, nó đc dùng trong hành chính , ngoại giao. Là công cụ bảo tồn và phát triển đất nước.

+, Là cơ sở để tiếng việt phát triển về mặt: từ vựng, ngữ pháp và âm⇒ tạo sự thống nhất dân tộc Việt Nam, cho dẫu dân tộc Việt Nam có nhiều dân tộc thiểu số và nhiều phương ngữ.

+, Chữ Quốc ngữ là cơ sở phát triển nền quốc học Việt Nam lên 1 tầng cao mới.

Chữ cái La –tinh ghi âm tiếng Việt trở thành chữ Quốc ngữ của nước ta cho đến nay vì:

Đây là loại chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến và là công cụ thông tin rất thuận tiện.Chữ quốc ngữ có vai trò quan trọng góp phần đắc lực vào việc truyền bá khoa học, phát triển văn hóa trong các thế kỉ sau, đặc biệt trong văn học viết.