kể tên 25 danh nhân
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Tham khảo: Kể lại câu chuyện về Ngô Quyền
- Tên danh nhân: Ngô Quyền
- Câu chuyện:
+ Ngô Quyền quê ở tại Đường Lâm (Sơn Tây - Hà Nội), cha là Ngô Mân - một Hào trưởng có tài đức. Ngô Quyền thông minh, văn võ song toàn, được Dương Đình Nghệ gả con gái là Dương Thị Ngọc và cho cai quản đất Ái Châu (Thanh Hóa).
+ Năm 938, quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo làm chủ tướng từ Quảng Đông theo đường biển ồ ạt tiến sang xâm lược nước ta. Trước vận nước lâm nguy, Ngô Quyền đã gấp rút chuẩn bị kế hoạch đối phó với quân Nam Hán. Vùng cửa sông Bạch Đằng được lựa chọn để bố trí trận địa đánh giặc.
+ Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội), mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
- Điều em học hỏi được từ danh nhân: lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm; thái độ chủ động, thông minh và tinh thần sáng tạo,…


Tham khảo!
Tiến sĩ Vũ Tông Phan là một nhân vật điển hình cho người Hà Nội ở thế kỉ XIX bởi sự nghiệp sáng tạo thi ca, hoạt động văn hoá, nhất là làm giáo dục, tất cả đều vì Hà Nội, cho Hà Nội.
Ngược dòng thời gian vào thế kỉ 19, năm 1831 khi Vũ Tông Phan từ Huế ra nhận chức Giáo thụ phủ Thuận An, lúc bấy giờ thuộc về Bắc Ninh, khi ra đến Hà Nội, cụ thấy quang cảnh Hà Nội như thế này: “Nay đương phát sinh nơi đô thành, nhiều hạng dân du thực du thủ đi học thì cốt giật tiếng nho, đi buôn chửa giàu đã khoe của, cư dân thường túm tụm ba hoa, bộ hành áo quần cực diêm dúa, sòng bạc tràn lan khắp gần xa…”.
Trước tình cảnh này, Vũ Tông Phan có bàn bạc với những người bạn thân thiết là: Ngô Thế Vinh, Tiến sĩ Lê Duy Trung, Phó bảng Nguyễn Văn Siêu… tập hợp được 1 nhóm sĩ phu và đề xuất phải chấn hưng văn hóa, giáo dục Thăng Long-Hà Nội. Họ đã đưa văn hóa, giáo dục Thăng Long từ chỗ hoang tàn ở buổi đầu năm 1831 (như cụ Phan đã miêu tả) mà chỉ 30 năm sau thôi một ký giả nước ngoài khi đến đây đã phải viết lên tờ Thông tin Bắc Kỳ: Thành phố này không còn là kinh đô nữa nhưng vẫn đứng đầu cả nước về kinh tế, văn hóa, giáo dục và phồn vinh đông đúc.

các vị danh nhân văn hóa xuất sắc: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông),....
em thích vị danh y Hải Thượng Lãn Ông nhất vì ông là người thầy thuốc có uy tín lớn ở thế kỉ XVIII. thông cảm sâu sắc với cuộc sống cực khổ của nhân dân, ông đã dày công nghiên cứu các sách thuốc thời xưa, kết hợp với kinh nghiệm chữa bệnh truyền thống nên đã phát hiện thêm công dụng của 305 vị thuốc nam và thu nhập được 2854 phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ông có cống hiến xuất sắc vào nền y học và dược học dân tộc, đặc biệt là bộ sách hải thượng y tông tâm lĩnh(66 quyển)

Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Quang Trung, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,...

Nguyễn Du (1766-1820): Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, tác giả của "Truyện Kiều" - một trong những tác phẩm văn học lớn nhất của Việt Nam.
Phan Đình Phùng (1847-1895): Nhà cách mạng, tướng lĩnh quân đội, đã lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp.
Hồ Chí Minh (1890-1969): Nhà cách mạng, nhà lãnh đạo của Việt Nam, đã đưa ra Tuyên ngôn độc lập và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Võ Nguyên Giáp (1911-2013): Tướng quân đội, nhà chiến lược, đã lãnh đạo quân đội Việt Nam trong nhiều cuộc chiến tranh, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ.

1. Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Nguyễn Trãi không những là một nhà chính trị, quân sự tài ba, một anh hùng dân tộc mà còn là một danh nhân văn hoá thế giới. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị lớn về văn học, sử học, địa lí học như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Quốc âm thi tập, Dư địa chí... Tư tưởng của ông tiêu biểu cho tư tưởng của thời đại. cả cuộc đời của Nguyễn Trãi, khi đánh giặc cũng như khi xây dựng đất nước hoặc sáng tác thơ văn, ông luôn nêu cao lòng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Ông thường suy nghĩ và mong muốn "ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày", "nơi thôn cùng, xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu".
2. Lê Thánh Tông (1442 - 1497)
Lê Thánh Tông không những là một vị vua anh minh, một tài năng xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn, nổi tiếng tài ba của dân tộc ta ở thế kỉ XV. Ông đã để lại một di sản thơ văn phong phú, đồ sộ. Cuối thế kỉ XV, ông sáng lập ra Hội Tao đàn và làm chủ soái. Hội Tao đàn ra đời đánh dấu bước phát triển cao về văn chương đương thời. Thơ văn của ông chứa đựng tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc. Ông sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như : Quỳnh uyển cửu ca, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỉ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xuý, CỔ tâm bách vịnh..., tất cả khoảng trên 300 bài (bằng chữ Hán), Hồng Đức quốc âm thi tập (bằng chữ Nôm).
3. Ngô Sĩ Liên (thế kỉ XV)
Ông là nhà sử học nổi tiếng của nước ta ở thế kỉ XV. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1442, từng được đảm nhận các chức vụ ở Hàn lâm viện, Phó đô ngự sử, sử quán tu soạn. Ông là một trong những tác giả bộ Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển) biên chép một cách có hệ thống lịch sử dân tộc từ thời Hồng Bàng đến năm 1427. 4. Lương Thế Vinh (1442 - ? ) Ông đỗ Trạng nguyên năm 1463, nổi tiếng thần đồng, học rộng, tài trí, khoáng đạt, bình dị được vua và dân coi trọng. Ông còn là nhà toán học nổi tiếng của nước ta thời Lê sơ. Ông có công trình Đại thành toán pháp, Thiền môn giáo khoa (nghiên cứu về Phật học). Ông được người đương thời ca ngợi là nhân vật "tài hoa, danh vọng bậc nhất"; đến nay còn gọi là "Trạng Lường".

- Tác phẩm “Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp” (SGK Ngữ Văn 10, bộ Cánh diều, tập 2, trang 5)
- Tác phẩm “Nguyễn Trãi và tấm lòng ưu ái “ngày đêm cuồn cuộn nước triều đông” (Đinh Gia Khánh)
- Tác phẩm “Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm” (Nguyễn Hữu Sơn)

Với đặc điểm hình thành đất đai, từ sớm Thái Bình - miền đất hạ lưu sông Hồng đã luôn luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi và khó khăn. Đó là hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang trước vùng đất vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song, đó cũng lại là miền đất hoang sơ với muôn vàn hiểm nguy rình rập, thử thách như dông bão, nắng hạn, đầm lầy, lau lách, thú dữ,...
1. Đoàn kết cải tạo thiên nhiên, trị thủy, khai hoang lập làng
Với đặc điểm hình thành đất đai, từ sớm Thái Bình - miền đất hạ lưu sông Hồng đã luôn luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi và khó khăn. Đó là hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang trước vùng đất vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song, đó cũng lại là miền đất hoang sơ với muôn vàn hiểm nguy rình rập, thử thách như dông bão, nắng hạn, đầm lầy, lau lách, thú dữ,... Đặc biệt, do kết quả tiến lùi, dồn tụ qua hàng vạn năm của sóng, gió biển, bề mặt địa hình của cả vùng có sự cao thấp khác nhau hết sức phức tạp: nơi nhiều gò đống, nơi úng trũng quanh năm. Đó là các yếu tố tác động sâu sa buộc những chủ nhân của miền đất Thái Bình trong trường kỳ lịch sử phải trải qua cả một hành trình bền bỉ đấu tranh ác liệt giành giật với thiên nhiên, biển cả, từng bước tạo lập một cuộc sống định cư trù mật, lâu dài.
Mặc dù hiếm có thể tìm được nguồn tài liệu để dựng lại một cách chân thực những cuộc khai khẩn chinh phục từ thuở hồng hoang trên đất Thái Bình, song chắc chắn đó là kết quả tất yếu của những cuộc thiên di dũng cảm do các bộ lạc Việt cổ từ các vùng cao tràn xuống xây dựng nơi cư trú chiếm lĩnh miền đồng bằng. Công cuộc chuyển cư của lớp cư dân đầu tiên này đã gắn với truyền thuyết mở mang bờ cõi của con rồng cháu lạc. Và cuộc đấu tranh sống còn chống giặc lụt để giành lấy đất đai màu mỡ ven sông biển cũng sớm trở thành thiên anh hùng ca in đậm trong huyền thoại về những cuộc đối đầu dữ dội giữa Sơn Tinh và Thủy tinh mà “giặc nước” chính là kẻ phải đành cam chịu thất bại trước tinh thần đoàn kết của người dân.
Tuy nhiên, hoạt động trị thủy - khẩn hoang ở Thái Bình chỉ thật sự diễn ra rõ nét với quy mô ngày càng tăng khi có thêm các luồng dân cư mới tiếp tục dồn đến đòi hỏi mở rộng địa bàn canh tác và điểm cư trú. Từ biện pháp dùng dao để cày, dùng lửa để trồng với sự tiến bộ về công cụ kim khí, những người dân đã nhanh chóng thích nghi với điều kiện địa hình sáng tạo ra kỹ thuật dùng lửa để đốt cây cỏ, dùng nước để trồng trọt rồi tiến đến dùng trâu bò cày kéo khai hoang trồng lúa ở cả một vùng đồng bằng ven biển.
Từ sau Công nguyên và đặc biệt đến thế kỷ VI, với sự ra đời của Nhà nước Vạn Xuân độc lập, mảnh đất Thái Bình thật sự trở thành điểm dừng chân hội tụ của nhiều luồng cư dân ở khắp các miền đất nước. Cũng từ đó, công việc khai hoang, trị thủy đã được đẩy mạnh một bước, để đến thế kỷ X - XI, vùng đất này đã trở thành “vựa lúa của cả nước, làng xóm đông vui”.
Dưới thời Lý - Trần, việc khẩn hoang được thuận lợi, nhiều trang, ấp, làng xóm mới ra đời, nhiều nhất là ở vùng Hưng Nhân, Duyên Hà, Quỳnh Côi, Phụ Dực (thuộc huyện Hưng Hà và Quỳnh Phụ ngày nay).
Trong công cuộc xây dựng lại đất nước (sau khi lật đổ ách thống trị nhà Minh), vua Lê Thái Tổ ban hành chính sách khuyến nông, bãi bỏ chế độ điền trang, thái ấp, thực hiện chế độ quân điền, khuyến khích thành lập các sở đồn điền để phát triển kinh tế nông nghiệp. Nhờ đó, kinh tế nông nghiệp nói chung, công việc khai hoang, phục hóa, mở rộng làng xã ở thời kỳ này nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn. Riêng ở Thái Bình, số làng xã mới được thành lập cũng tăng lên đáng kể (theo ghi chép của Nguyễn Trãi trong Dư địa chí năm 1435, số lượng làng xã ở Thái Bình là trên 400 đơn vị xã, thôn, trang...; theo Hồng Đức bản đồ, ở Thái Bình có 503 đơn vị làng xã...).
Đến thời Nguyễn, nhờ đẩy mạnh khai hoang mà nhiều huyện mới, tổng mới... đã ra đời ở khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, trong đó có huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và huyện Tiền Hải (Thái Bình).
Với những quy định có lợi cho người tham gia khẩn hoang, nên công cuộc doanh điền, khẩn hoang của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ở bãi Cồn Tiền được thực hiện nhanh chóng, chỉ trong 6 tháng đã lập nên 7 tổng với 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp; 18.970 mẫu ruộng, 8.000 mẫu đất (thổ ương, thổ cư), 2.350 suất đinh, đưa tới sự ra đời của huyện Tiền Hải.
Cùng thời gian này, nhiều vùng đất hoang ven biển của huyện Thụy Anh được khai phá. Đất khai phá được chia thành 153 phần cho 122 suất đinh, mỗi phần được 6 sào 2 khấu (mỗi khấu bằng 36m2). Năm Thành Thái thứ 13 (1901) dân trong lý làm đơn xin chuyển số ruộng đất này thành “tư điền tam đẳng” để truyền cho con cháu.
Xét trên phạm vi toàn tỉnh, đến đầu thế kỷ XX, nhờ đẩy mạnh khai hoang, phục hóa, điều chỉnh địa giới hành chính và dân cư, nên số làng xã ở Thái Bình đã tăng lên đáng kể. Theo thống kê của Ngô Vi Liễn, năm 1928, tỉnh Thái Bình có 817 đơn vị hành chính cấp xã, với trên 1.200 thôn, làng, xóm, trại.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vấn đề trị thủy - khẩn hoang, lập làng, lấn biển thật sự trở thành vấn đề thường trực tất yếu, một công việc có cả bề dày kinh nghiệm, của nhiều thế hệ cư dân Thái Bình. Truyền thống trị thủy - khẩn hoang, quai đê lấn biển, lập làng không chỉ là cội rễ tự nhiên của tinh thần cố kết cộng đồng mà còn là cơ sở thiết yếu cho việc mở rộng địa bàn cư trú, thuần dưỡng đất đai, phát triển ngành nghề. Bằng sức mạnh của đoàn kết người dân Thái Bình đã đấu tranh vật lộn với đồng đất, giành giật với thiên nhiên, biến miền đất hoang dã ngập mặn thành phì nhiêu màu mỡ. Thành quả này được các thế hệ người Thái Bình đời sau kế thừa, phát huy dưới nhiều hình thức, với những cách làm sáng tạo, mang dấu ấn đặc trưng riêng của người Thái Bình. Lịch sử đã ghi nhận những mô hình sáng tạo của làng khẩn hoang ven biển từ cuối thế kỷ XIX đến nay như: Làng kinh tế mới ven biển những thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX; làng kháng chiến kiểu mẫu thời kỳ chống Pháp và đặc biệt là làng văn hiến, làng nghề, làng văn hóa... trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở Thái Bình.
2. Cần cù, sáng tạo trong lao động - sản xuất
Theo các nguồn sử liệu thì vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, nhiều vùng đất nay thuộc tỉnh Thái Bình đã khá sầm uất với các lớp cư dân sinh sống chủ yếu nhờ gieo cấy lúa nước và đánh bắt thủy hải sản. Với địa hình ba mặt là sông lớn, một mặt là biển, nội địa lại chằng chịt những sông ngòi nhỏ, những người dân cư tụ ở Thái Bình đã sớm thích nghi xử trí thông minh, biến yếu tố vốn thường coi là đứng đầu trong các hiểm họa (thủy, hỏa, đạo, tặc) trở thành điều kiện, biện pháp hàng đầu trong kỹ thuật thâm canh trồng lúa. Việc quai đê, đắp đập. khơi ngòi, đào mương máng, dựng kè cống,… đã thay thế cho phương thức sản xuất trồng lúa nước dựa vào sự lên xuống của thủy triều hết sức thụ động ở buổi sơ khai. Kỹ thuật làm thủy lợi, kinh nghiệm trị thủy đã giúp người dân nơi đây khống chế được nước lũ trong mùa mưa, giữ được nước trong màu cạn, thau chua, rửa mặn cải tạo đất canh tác phục vụ tích cực cho trồng trọt mà trực tiếp là sự sinh trưởng phát triển của cây lúa.
Để tăng cường chất đất cho việc trồng lúa, người nông dân Thái Bình tư lâu không chỉ biết tận dụng mọi nguồn phân bón cùng với kỹ thuật làm ải, bừa tơi mà còn biết sử dụng phân bón phù hợp với từng loại đất để cây lúa cho năng suất cao. Đặc biệt, nhiều địa phương ở Thái Bình đã nổi tiếng với việc phát triển, nuôi cấy một nguồn phân bón tạo được nhiều chất màu cho đất, lại thích hợp với cây lúa. Đó là kỹ thuật gây chọn, nhân giống bèo hoa dâu ở các làng: La Vân( Quỳnh Phụ), Bích Du (Thái Thụy), Búng (Vũ Thư),… Cùng với tri thức chung của nghề trồng lúa ở đồng bằng sông Hồng “n...
- Nguyễn Trung Trực
- Phạm Ngọc Thạch
- Lưu Hữu Phước
- Phan Bội Châu
- Tôn Đức Thắng
- Nguyễn Siêu
- Đào Tấn
- Trương Vĩnh Ký
- Tôn Thất Tùng
- Phan Đăng Lưu
- Phan Bội Châu
- Huỳnh Thúc Kháng
- Giang Văn Minh
- Nguyễn Huệ
- Nguyễn Du
- Phạm Ngọc Thạch
- Lưu Hữu Phước
- Nguyễn Thị Minh Khai
- Nguyễn Hữu Thọ
- Tạ Văn Bửu
- Nguyễn Tuân
- Đỗ Nhuận
- Lý Công Uẩn
- Trần Hưng Đạo