Những bài dân ca miền trung và tác giả
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1
Hái Hoa (Dân Ca Bắc Bộ)
2
Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh
Tui Hát
8.677
97
6
3
Ru Con Bắc Bộ
Thu Hiền
4.523
67
8
4
Ngợi Ca Quê Hương
Ngọc Hải, Thạch Thảo
9.474
86
4
5
Trống Cơm (Dân Ca Bắc Bộ)
Hòa Tấu, Sáo Trúc, Đàn Tranh, Đàn Bầu
11.046
157
6
6
Tuổi Thơ
Binz, Kancc, LT
9.048
103
8
7
Bài ca yêu thương
Tam Ca Áo Trắng
7.914
72
3
8
Lý Kéo Chài (Dân Ca Nam Bộ)
Thanh Lan
11.224
203
6
9
Cây Trúc Xinh
Phạm Đức Thành
13.355
226
9
10
Dòng Sông Quê Mẹ (Ca Cổ)
Vương Hùng
8.024
89
1
11
Cô Giáo Về Bản Beat
Thùy Linh
6.855
71
3
12
Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh
Hoàng Thị Hoa
11.417
187
9
13
Ngợi ca quê hương
Hương Thủy
7.791
84
3
14
Gắng Mà Lo (Dân Ca Bắc Bộ)
Quang Bình, Trang Thanh Lan
7.259
62
1
15
Đôi Bờ (Dân Ca Nga)
Thảo Vân
10.199
183
4
16
Đêm Nghe Hát Đò Đưa Nhớ Bác
Thanh Hoa
3.013
33
6
17
Bài ca thương nhớ
Tuấn Ngọc
6.491
59
2
18
Bức Họa Đồng Quê
Đan Trường
2.640
17
2
19
Tình Ca Quê Hương
Quang Lê
5.121
45
1
20
Đêm Giao Thừa Nghe Khúc Dân Ca
Phương Mỹ Chi
2.394
34
1
21
Chín Bậc Tình Yêu (Live)
Sơn Tùng M-TP
4.051
40
4
22
Tình Ca Tây Bắc
Thu Hiền, Trung Đức
4.032
30
1
23
Khúc Ca Ngày Mới
V.A
4.660
35
2
24
Lời Bác Dặn Trước Lúc Đi Xa
Thu Hiền
3.592
35
0
25
Vì Anh Là Soái Ca
Đàm Vĩnh Hưng
1.991
36
7
26
Ba Kể Con Nghe
Bùi Minh QuânDương Minh Tuấn
1.553
23
1
27
Khúc Dân Ca Nam Bộ
Hoài Nam
1.622
21
0
28
Tìm Em Qua Câu Dân Ca
Trọng TấnAnh Thơ
1.426
14
0
29
Bác Hồ Một Tình Yêu Bao La
Thanh Hoa
1.523
20
0
30
Đập Vỡ Cây Đàn
Quang Lê
1.530
23
0
31
Đêm Nghe Hát Đò Đưa Nhớ Bác
Thu Hiền
Dân ca quan họ Bắc Ninh sao lại là tui hát hay là Quan chaan hát thật à
Tham khảo
a) Bài 2 là lời người lao động thương cho thân phận những người khốn khổ và cũng là chính mình trong xã hội cũ.
b) Những chi tiết biểu lộ cảm xúc:
+ Thương con tằm "kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ" là thương cho thân phận suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực.
+ Thương lũ kiến li ti "kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi" là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn nghèo khó.
+ Thương con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, lận đận và những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ.
+ Thương con cuốc là thương cho thân phận thấp cổ bé họng, nỗi khổ đau oan trái không được lẽ công bằng nào soi tỏ của người lao động.
- Cách biểu đạt cảm xúc: "Thương thay" được lặp lại 4 lần nhằm diễn tả nỗi thương - thương thân phận mình và thân phận người cùng cảnh ngộ. Bốn câu ca dao - bốn nỗi thương. Sự lặp lại tô đậm mối thương cảm, xót xa cho cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân thường. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối và mở ra những nỗi thương khác. Mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển.
a, Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, phản ánh tâm tư tình cảm, thế giới tâm hồn của con người (trữ: phát ra, bày tỏ, thể hiện ; tình: tình cảm, cảm xúc). Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, người nông dân, người phụ nữ,... trong quan hệ xã hội. Cũng có những bài ca dao châm biếm phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.
b,Bên cạnh những đặc điểm chung với thơ trữ tình (có vần, nhịp, sử dụng nhiều biện pháp tu từ,...), ca dao, dân ca có những đặc thù riêng:
+ Ca dao, dân ca thường rất ngắn, đa số là những bài gồm hai hoặc bốn dòng thơ.
+ Sử dụng thủ pháp lặp (lặp kết cấu, lặp dòng thơ mở đầu, lặp hình ảnh, lặp ngôn ngữ,...) như là một thủ pháp chủ yếu để tổ chức hình tượng.
Bài làm
Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu, truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần như là “đồng tác giả” với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu không rõ là ai. Một bài dân cathường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là lòng bản và nhiều bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi.
Để có một khái niệm chuẩn về dân ca thật không đơn giản. Người Đức gọi dân ca là volkslied (tạm dịch là: bài ca của nhân dân), người Pháp gọi là chanson populaire (tạm dịch là: bài ca phổ cập trong quần chúng), người Anh gọi dân ca là folk song (tạm dịch là bài ca mang tính dân tộc). Ngay cả trong các tài liệu Việt Nam về dân ca hay công trình Nghiên cứu của Gs. TS Vũ Ngọc Khánh “Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam” cũng không có khái niệm cụ thể hay một định nghĩa công thức về dân ca như các định nghĩa về những phạm trù khác.
Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu, truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần như là “đồng tác giả” với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu không rõ là ai. Một bài dân ca thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là lòng bản và nhiều bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi. Hiện nay các nhạc sĩ đã sáng tác thêm những lời ca mới dựa trên các làn điệu đã có tạo nên sự đa dạng và phong phú cho dân ca . Các dịp biểu diễn thường là lễ hội, hát làng nghề ngoài ra thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau, hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Tuy nhiên mỗi tỉnh thành, dân ca Việt Nam lại có phát âm, giọng nói và các từ khác nhau nên cũng có thể phân theo tỉnh cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung của miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ngày nay, khi khảo sát một bài dân ca được phổ biến ở một vùng nào đó, muốn biết được xuất xứ của chúng, người ta thường dựa vào một vài đặc điểm có trong đó ví dụ như tiếng địa phương, những địa danh. Đây là cách dễ nhận biết nhất để nhận ra xuất xứ của một bài dân ca. Nói chung trong các bài dân ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng, thì, chứ…” và các dấu giọng như: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những nốt nhạc sao cho việc phát âm được rõ nét. Một số phụ âm được phát âm một cách đặc thù như: “r, d, gi” hay “s và x” phát âm giống nhau, không phân biệt nặng nhẹ. Dân ca miền Trung thì thường có chữ “ ni, nớ, răng, rứa…” dấu sắc được đọc thành dấu hỏi (so với giọng người Bắc), dấu hỏi và ngã đều được đọc giống nhau và trầm hơn chữ không dấu. Những bài dân ca miền Nam thì thường có chữ “má (mẹ), bậu (em), đặng (được)…” chữ “ê” đọc thành chữ “ơ”, dấu ngã đọc thành dấu hỏi,… Nhưng nhìn chung thì vẫn là thoát thai từ lòng dân với đậm tính chất mộc mạc giản dị của họ.