nêu những chuyển biến trong đời sống kinh tế
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Những chuyển biến trong đời sống kinh tế của người nguyên thủy:
✔ Về công cụ:
-Công cụ được mài nhẵn toàn bộ,có hình dáng cân xứng.
-Được tìm thấy ở Phùng Nguyên (Phú Thọ),Hoa Lộc(Thanh Hóa),Lung Leng(Kon Tum)cách đây khoảng 4000 - 3500 năm.
-Làm gốm có hoa văn trang trí đẹp.
✔ Về thuật luyện kim:
-Nhờ sự phát triển của nghề làm gốm,người Phùng Nguyên - Hoa Lộc đã phát minh ra thuật luyện kim.
-Kim loại được dùng đầu tiên là đồng.
-Nhiều cục đồng,xỉ đồng,dây đồng được tìm thấy ở Phùng Nguyên - Hoa Lộc.
✔ Về nghề nông trồng lúa nước:
-Di chỉ Hoa Lộc - Phùng Nguyên đã tìm thấy dấu tích của nghề nông trồng lúa nước ở nước ta.
- Điều kiện➸công cụ sản xuất được cải tiến;ở vùng đồng bằng,ven sông lớn đất đai màu mỡ.
-Cây lúa trở thành cây lương thực chính.
Chúc bn học tốt!❤
Sự chuyển biến trong đời sống kinh tế và xã hôi vào thời gian nào
Bạn phải nêu đề rõ mình mới trả lời được
Những chuyển biến trong đời sống kinh tế và xã hội là gì? Thuật luyện kim được phát minh như thế nào
1/ Chuyển biến về kinh tế
- Công cụ bằng đá được mài nhẵn toàn bộ, vuông vắn, có hình dáng rõ ràng.
- Đồ gốm có chủng loại phong phú, kĩ thuật chế tác ở trình độ cao.
- Cuộc sống định cư lâu dài, đòi hỏi con người phải cải tiến công cụ.
- Mở ra thời đại mới trong chế tạo công cụ lao động => năng xuất lao động tăng.
2/ Chuyển biến về xã hội
- Cuộc sống ổn định nên các chiềng, chạ và bộ lạc được hình thành.
- Đứng đầu chiềng, chạ là già làng, đứng đầu bộ lạc là tù trưởng.
- Chế độ phụ hệ dần thay thế chế độ mẫu hệ.
- Xã hội có sự phân biệt giàu nghèo.
3/ Thuật luyện kim
- Nghề gốm phát triển, giúp con người phát minh ra thuật luyện kim.
- Kim loại đầu tiên là đồng.
REFER
Những công cụ đá cuội được ghè, đẽo tìm thấy ở buôn Păn Lăm (thành phố Buôn Ma Thuột) cho thấy chủ nhân của nó bước đầu đã biết chế tác công cụ lao động, mặc dù còn thô sơ, để tìm kiếm thức ăn.
Những dấu vết cổ sinh hoá thạch dưới trầm tích núi lửa ở Tân Lộc (Ea Kar) cũng như một loạt di cốt động vật hoá thạch (voi, tê giác, hổ, hươu, nai, hoẵng,...) ở nhiều nơi khác trên vùng đất Đắk Lắk cho thấy con người có mặt trên vùng đất này khá sớm. Đời sống của họ chủ yếu dựa vào săn bắt, hái lượm, trồng trọt, có sự phân công lao động; hoạt động thủ công chế tác đồ đá và làm gốm phát triển, có thể bước đầu biết luyện kim.
Bước vào thời đại đá mới, bên cạnh sử dụng những công cụ bằng đá cuội, cư dân nguyên thuỷ ở Đắk Lắk đã biết sử dụng vũ khí bằng tre, gỗ và các loại bẫy để săn bắt. Ngoài việc săn bắt các loài động vật trên cạn, cư dân cổ ở Đắk Lắk còn biết đánh bắt các loài thuỷ sản ở các con sông, suối hoặc đầm lầy. Họ sử dụng lưới được gắn chì hình quả nhót bằng đất nung. Có lẽ do điều kiện môi trường tương đối thuận lợi nên trong hoạt động săn bắt, hái lượm, người nguyên thuỷ ở Đắk Lắk không có thói quen thu lượm các loài nhuyễn thế, nhất là ốc. Bên cạnh đó, việc hái lượm vẫn được duy trì để bổ sung nguồn thức ăn.
Sang thời hậu kì đá mới và sơ kì kim khí, trồng trọt là thành tựu nổi bật nhất của cư dân cổ Đắk Lắk. Trong các di chỉ khảo cô tìm thấy ở Đắk Lắk, Các nhà khảo cổ đã phát hiện được một số mẫu bào tử phân hóa của các giống, loài cây trồng như bông và các loài họ lúa. Đặc biệt, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số hạt lúa nương trong tầng đất chứa công cụ như cuốc, rìu, bôn mài toàn thân và đồ gốm. Rất nhiều lại đồ gốm ám khói, dấu hiệu của việc đun, nấu thức ăn. Những điều này chứng tỏ cư dân cổ Đắk Lắk đã biết trồng trọt các loại rau, cây cho củ, cây ăn quả và cả lúa nương. Nền nông nghiệp sơ khai của cư dân cổ Đắk Lắk đã ra đời.
Mặc dù cuộc sống của cư dân cổ Đắk Lắk chủ yếu vẫn dựa vào hoạt động săn bắt, hái lượm, nhưng sự ra đời của nông nghiệp sơ khai đã đánh dấu sự chuyển biến mới của cư dân thời hậu kì đá mới và sơ kì kim khí ở Đắk Lắk.
Từ đầu Công nguyên trở đi, sản xuất nông nghiệp đã trở thành ngành kinh tế chính trong đời sống của các dân tộc ở Đắk Lắk. Trong sản xuất nông nghiệp, việc làm rẫy chiếm vị trí quan trọng. Cư dân ở đây cũng đã biết trồng xen lúa, bắp với các loại rau, đậu, củ để tận dụng, cải thiện đất, làm cho đất tốt hơn và cho nhiều sản phẩm hơn. Chăn nuôi không được chú trọng và phát triển như vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ hoặc miền núi phía Bắc. Có lẽ do điều kiện tự nhiên ưu đãi với số lượng và chủng loài động vật phong phú sẵn có làm cho cư dân ở đây không có khái niệm chăn nuôi.
Cho đến cuối thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm chiếm, đại bộ phận dân cư các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk sống bằng nghề nông, làm nương, rẫy, săn bắt và hái lượm, lệ thuộc vào tự nhiên. Trình độ sản xuất tuy còn thấp nhưng đất đai rộng lớn và màu mỡ nên cuộc sống của họ vẫn ổn định. Sản phẩm nông nghiệp dư thừa chủ yếu được trao đổi trong cộng đồng buôn làng. Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên vùng đất này, cơ cấu kinh tế ở Đắk Lắk đã có sự thay đổi
Các chuyển biến về mặt xã hội:
- Sự phân công lao động hình thành
- Xuất hiện làng bản (chiềng,chạ) và các bộ lạc
- Chế độ phụ hệ dần chuyển sang chế độ mẫu hệ
- Bắt đầu có sự phân hóa giàu - nghèo
ồ thế à sao mình lại ko biết nhỉ