điên môc thơi gian:
1258:
1075:
1300:
1075-1077:
1287-1288:
giupmin nhe
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Cuộc kháng chiến | Cách đánh giặc |
Kháng chiến chống quân Tống (981) |
- Đường thủy: Đóng cọc ở sông Bạch Đằng. - Đường bộ: Truy kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch. |
Kháng chiến chống quân Tống (1075 - 1077) |
- Giai đoạn 1: Thực hiện chủ trương "Tiến công trước để tự vệ". - Giai đoạn 2: Xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. |
Kháng chiến chống quân Mông - Nguyên (1285 - 1288) | - Thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống". |
Câu 1:
Sau thất bại lần thứ nhất (năm 981), nhà Tống chưa từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Từ năm 1068, nhà Tống đã ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta để giải quyết khó khăn trong nước và gây thanh thế với các nước láng giềng.
Lý Thường Kiệt được triều đình giao cho chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược được chia làm 2 giai đoạn.
1. Giai đoạn thứ I (1075)
a. Diễn biến
- Tháng 10- 1075, Lý Thường Kiệt và Tông Đản chỉ huy 10 vạn quân, chia làm 2 đạo tấn công vào đất Tống.
+ Mục tiêu: kho lương thành Châu Ung
+ Đường bộ do Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy quân dân miền núi.
+ Lí Thường Kiệt chỉ huy quân thuỷ đổ bộ vào Châu Liêm, châu Khâm
+ Lý Thường kiệt đã cho yết bảng nói rõ mục đích cuộc tiến công tự vệ của mình.
- Sau 42 ngày đêm quân ta đã làm chủ thành Ung Châu, tướng giặc phải tự tử.
b. Ý nghĩa
Làm thay đổi kế hoạch và làm chậm lại cuộc tấn công xâm lược của nhà Tống vào nước ta
2. GIAI ĐOẠN THỨ HAI (1076 – 1077)
a. Diễn biến
- Cuối năm 1076, 10 vạn quân Tống, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy kéo vào nước ta; 1 đạo quân do Hoà Mâu theo đường biển tiếp ứng.
- Tháng 01/1077, quân Tống vượt ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước ta, nhà Lý đánh nhiều trận nhỏ để cản bước tiến của giặc.
- Lý Kế Nguyên đã mai phục và đánh 10 trận liên tiếp ngăn bước tiến đạo quân thủy của giặc.
b. Kết quả: Quân Tống đóng quân ở bờ bắc sông Cầu không lọt vào sâu được.
Diễn biến:
- Quách Quỳ cho quân vượt sông đánh phòng tuyến của ta nhưng bị quân ta phản công quyết liệt làm chúng không tiến vào được.
- Cuối xuân 1077 Lý Thường Kiệt cho quân vượt sông bắt ngờ đánh vào đồn giặc.
Kết quả:
+ Quân giặc “Mười phần chết đến năm sáu phần”.
+ Quách Qùy chấp nhận giảng hòa và rút quân về nước.
Nguyên nhân - Ý nghĩa:
+ Sự ủng hộ tinh thần đoàn kết của quân dân ta
+ Tài chỉ huy của Lý Thường Kiệt
+ Là trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
+ Củng cố nền độc lập tự chủ của dân tộc.
+ Đập tan mộng xâm lược Đại Việt của nhà Tống.
Câu 2:
Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông (1258, 1285, 1288) của quân và dân Đại Việt là bản anh hùng ca trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Nó đã góp phần phát triển rực rỡ nền nghệ thuật quân sự nước nhà. Trong đó, “thủy chiến” là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc.
Trong vòng 30 năm ở thế kỷ XIII, đế quốc Nguyên - Mông đã ba lần tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, nhưng chúng đều chuốc lấy thảm bại, bởi lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần đoàn kết và nghệ thuật quân sự tài tình của quân và dân Đại Việt, dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần. Điều đặc biệt lý thú là, những trận thủy chiến nơi sông nước của quân và dân nhà Trần đều là những đòn then chốt, quyết định thắng lợi của mỗi cuộc kháng chiến. Chúng ta biết, sức mạnh vượt trội của quân Nguyên - Mông là kỵ binh, với ưu thế cơ động nhanh, tiến công mạnh. Khi giao chiến, kỵ binh Nguyên - Mông thường ồ ạt xông thẳng vào đội hình đối phương. Nếu không thắng ngay được từ đợt tiến công đầu thì sẽ có các thê đội kỵ binh kế tiếp. Ngoài ra, quân Nguyên - Mông còn thường dùng lối đánh vu hồi, hai bên sườn, tổ chức tiến công cùng lúc từ nhiều hướng, v.v. Chính nhờ vào đội quân kỵ binh thiện chiến ấy, đế quốc Nguyên - Mông đã tung hoành khắp lục địa Á - Âu, thiết lập ách thống trị từ Thái Bình Dương sang đến Địa Trung Hải. Tuy nhiên, khi xâm lược Đại Việt, điểm mạnh của chúng đã không thể được phát huy, bởi địa hình phức tạp, gồm nhiều sông ngòi, đầm hồ,... của nước ta. Hơn nữa, người dân Đại Việt lại rất thông thạo sông nước, giỏi bơi lội, thông luồng lạch, giỏi dùng thuyền bè. Trước khi trở thành vương triều Đại Việt, nhà Trần vốn là một tập đoàn đánh cá và làm muối ở vùng hạ lưu sông Hồng, ven biển hai tỉnh Thái Bình và Nam Định ngày nay. Vì thế, vua tôi nhà Trần càng hiểu sâu sắc hơn về đường thủy và quân thủy trong tổ chức quân đội và vai trò của nó trong chiến tranh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ Nhất (1258), để tránh sức mạnh ban đầu và sở trường của giặc, quân và dân nhà Trần đã tiến hành rút lui chiến lược sau khi dàn trận đánh địch ở Bình Lệ Nguyên (Phú Thọ) không thành. Sau đó, đưa cả dân rút khỏi kinh đô Thăng Long, thực hiện kế sách “thành không, nhà trống”, khiến cho kế hoạch bao vây, đánh tan quân ta của địch bước đầu bị thất bại. Đồng thời, triển khai các điểm chốt chặn trên các trọng điểm, phá cầu Phù Lỗ, làm cho quân Nguyên - Mông không truy đuổi kịp vua Trần; trong đó có sử dụng một bộ phận quân chủ lực cùng các lực lượng dân binh, thổ binh đánh tập kích vào cả trước mặt, sau lưng và hai bên sườn quân địch, kết hợp với kế “thanh dã” khiến cho địch từ tập trung phải chuyển sang phân tán đối phó và luôn bị uy hiếp, căng thẳng, mệt mỏi, thiếu lương thảo. Đến khi chúng đến được Thăng Long thì chỉ còn là một kinh thành trống không, tung quân ra xung quanh để cướp bóc lương thảo thì bị dân chúng các địa phương dựa vào các trận địa làng, xã chặn đánh quyết liệt. Mới chiếm Thăng Long được 9 ngày, quân Nguyên - Mông đã hoảng hốt, mất ý chí chiến đấu. Chúng không dám đóng quân trong thành Thăng Long mà phải chọn bến Đông Bộ Đầu bên dòng sông Nhị Hà (sông Hồng) để hạ trại. Đây chính là thời cơ thuận lợi để quân và dân nhà Trần mở những trận đánh then chốt giành thắng lợi. Đêm 29-01-1258, đoàn binh thuyền nhà Trần do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy đã bí mật cơ động lực lượng từ Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên) theo sông Hồng tiến về Thăng Long, triển khai đội hình tập kích vào doanh trại quân địch. Bị đánh bất ngờ, quân địch hết sức lúng túng, không kịp đối phó, bị tổn thất nặng, phải tháo chạy khỏi kinh thành Thăng Long. Trận Đông Bộ Đầu là trận quyết chiến chiến lược, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược lần thứ Nhất của quân và dân Đại Việt, đẩy kẻ thù lâm vào tình thế khó khăn, buộc phải rời khỏi Thăng Long sau 9 ngày chiếm đóng. Sở dĩ, trận tập kích Đông Bộ Đầu giành thắng lợi chỉ trong một đêm là do quân và dân nhà Trần đã tận dụng đường sông để cơ động và triển khai lực lượng một cách bí mật, bất ngờ. Đây là lối đánh tập kích đường sông hết sức tài giỏi của quân và dân ta, nhằm lúc địch rời khỏi lưng ngựa, không có lực lượng thủy chiến yểm trợ, nên đã giành thắng lợi to lớn.
Bị thất bại trong hai lần phát động chiến tranh xâm lược Đại Việt, nhà Nguyên quyết định: đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Nhật Bản, tập trung mọi nhân tài, vật lực vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ Ba (1288). Theo đó, ngoài lực lượng kỵ binh và bộ binh hùng hậu, chúng còn huy động khoảng 700 chiến thuyền các loại, trong đó có 70 thuyền vận tải lớn chở theo 17 vạn thạch lương, v.v. Theo dõi, nắm chắc âm mưu xâm lược của địch và với kinh nghiệm của hai cuộc kháng chiến trước đây, quân và dân nhà Trần bước vào cuộc kháng chiến lần thứ Ba trong tư thế hoàn toàn chủ động. Khi được vua Trần Nhân Tông hỏi: Năm nay giặc đến ra sao? Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái đáp rằng, năm nay đánh giặc nhàn. Sở dĩ có sự khẳng định đó, bởi Ông đã nắm chắc rằng, địch chấp nhận giao chiến với ta trên sông nước là chúng đã từ bỏ sở trường và bị buộc phải đánh theo cách thủy chiến sở trường của Đại Việt. Theo phương lược đó, Trần Quốc Tuấn đã tổ chức những trận đánh ngăn chặn, tiêu hao địch,… rồi rút lui để bảo toàn lực lượng (từ tháng 12-1287 đến tháng 3-1288) cùng với những hoạt động nhằm đẩy địch vào “cạm bẫy” của Ông. Cùng với đó, sử dụng đạo binh thuyền của Trần Khánh Dư chủ động tập kích tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bằng thủy chiến, làm mất chỗ dựa của cả đội quân xâm lược. Trong khi đó, quân ta tập trung vây hãm đạo trung quân của Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, khiến chúng đói khát, ốm đau, hoảng loạn tinh thần, buộc phải tìm cách rút quân về nước bằng hai hướng thủy, bộ. Như đã định liệu, Bộ Thống soái nhà Trần chọn đòn quyết định đánh vào đạo quân rút theo đường thủy của địch ở Bạch Đằng, nơi quân ta quen sông nước và đã chuẩn bị sẵn, nơi phối hợp tốt giữa thủy quân và bộ binh của ta, nơi địch phải đi theo đường độc đạo mà kỵ binh không thể thi thố được. Còn truy đuổi, đón đánh đạo quân của Thoát Hoan rút theo đường bộ thì giao cho quân của các vương hầu, tôn thất và các dân binh trên hướng Vạn Kiếp - Lạng Sơn. Thực tiễn cho thấy, đòn đánh địch sấm sét ở cửa sông Bạch Đằng không dừng lại ở việc buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta mà còn điều được địch đến địa điểm và thời gian ta muốn để phát huy tối đa mọi nhân tố và các lực lượng tham gia cùng lực lượng thủy binh tiêu diệt địch, góp phần quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến lần thứ Ba.Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm quý báu đó, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ Hai (1285), quân và dân nhà Trần thực hiện đòn phản công chiến lược bằng nghệ thuật thủy chiến kết hợp với những trận chiến đấu trên bộ độc đáo, sáng tạo. Sau thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ Nhất, khát vọng bành trướng xuống phía Nam của đế quốc Nguyên - Mông vẫn không thuyên giảm. Năm 1285, chúng huy động 50 vạn quân tiến hành xâm lược nước ta. Với nhãn quan quân sự thiên tài và lòng yêu nước sâu sắc, Tổng chỉ huy quân đội Đại Việt - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã kế thừa và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo truyền thống kinh nghiệm đánh giặc của dân tộc vào thực tế. Theo đó, trên cơ sở bám sát phương châm: “lấy nhàn đợi nhọc”, “lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” và lợi dụng việc quân xâm lược không quen thủy thổ của ta để làm chúng thêm suy yếu, Ông chủ trương: lấy chiến trường sông nước để giáng những đòn quyết định, nơi mà số đông kỵ binh địch không thể triển khai, không phát huy được tốc độ. Thực tiễn cho thấy, trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ Hai, quân địch đã phải tốn rất nhiều công sức để rượt đuổi theo quân chủ lực của quân đội nhà Trần, cơ động bằng thuyền, thoắt hiện, thoắt ẩn, khi thì đóng ở Thiên Trường, cần thì vượt biển vào Thanh Hóa,… khiến cho quân địch mệt nhoài, chán nản. Khi thời cơ đến, Hưng Đạo Đại Vương mở cuộc tổng phản công chiến lược, tiến công mãnh liệt vào các căn cứ, đồn trại thuộc phòng tuyến nam sông Hồng của địch, như: A Lỗ, Tây Kết, Chương Dương, v.v. Đặc biệt, trong trận Chương Dương, Bộ Thống soái tối cao nhà Trần đã dùng lực lượng lớn thủy quân bí mật cơ động, triển khai để bất ngờ tập kích vào căn cứ địch như một trận đánh khêu ngòi, tạo thế: đánh mạnh ở Chương Dương, nhử Thoát Hoan đưa quân ở Thăng Long ra cứu viện để đồng thời tiêu diệt địch và đoạt lấy thành trì. Trong trận này, quân và dân nhà Trần đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức tác chiến, kết hợp tập kích, phục kích với công kích tiêu diệt lớn quân địch, giành lại Thăng Long, giải phóng đất nước.
Ngày nay, nghệ thuật, phương thức tiến hành chiến tranh có sự phát triển mới. Tình hình địch, ta sẽ có nhiều thay đổi; thời gian, không gian tác chiến sẽ diễn ra vô cùng mau lẹ, trong phạm vi một vùng chiến lược hoặc cả chiều dài đất nước. Do đó, cùng với những nhận thức mới về nghệ thuật tác chiến, bài học về nghệ thuật “thủy chiến” của quân và dân nhà Trần trước giặc Nguyên - Mông xâm lược vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Câu 1:
* Bảng các cuộc chiến tranh xâm lược dưới thời Lý - Trần
Cuộc kháng chiến |
Thời gian |
Lượng lượng quân xâm lược |
Chống quân xâm lược Tống |
1075 - 1077 |
30 vạn quân Tống |
Kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ |
1258 |
hơn 3 vạn quân Mông Cổ |
Kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên |
1285 |
50 vạn quân Nguyên |
Kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên |
1287 - 1288 |
hơn 30 vạn quân Nguyên |
Thời gian | Sự kiện |
1/1258 | Chống quân xâm lược Mông Nguyên lần I |
29/1/1258 | chiến thắng xâm lược Mông nguyên lần I |
Năm 1279 | Nhà Tống bị tiêu diệt |
1/1285 | Thoát Hoan chỉ huy 50 vạn quân tiến vào nước ta ( xâm lược lần II) |
12/1287 | Quyết tâm xâm lược nước ta lần III |
4/1288 | chiến thăng Bạch Đằng |
I. CHIẾN DỊCH ĐÁNH TỐNG 1075
Chiến dịch đánh Tống 1075 là tên gọi của chiến dịch do Lý Thường Kiệt của nhà Lý phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống-Việt năm 1075-1076.
Hoàn cảnh lịch sử
Nước Tống dưới thời Tống Thần Tông bị sự uy hiếp của các Liêu và Hạ phương Bắc, phải cống nộp nhiều của cải và bị cắt nhiều phần lãnh thổ. Tể tướng Vương An Thạch rất chú ý đến phương Nam và muốn lập công to ở ngoài biên, tâu lên vua Tống rằng: "Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thànhbị thất bại, quân không còn nổi một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ.
Tri châu Tiêu Chú ở Ung Châu đã có lần dâng sớ về triều xin đánh Đại Việt kẻo sau có đại họa. Nhưng Tiêu Chú bị bãi chức. Khi họ Vương lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì ông là người am hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong Kế hoạch mở rộng xuống phương Nam của Vương tể tướng. Dự án ấy không riêng lo khuếch trương về phương Nam mà còn lấy khí thế để mở rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương Bắc nữa (đánh Liêu và Hạ).
Thái độ của triều Lý
Nhà Tống để ý đến thái độ của Lý triều thì thấy nhà Lý có vẻ ngang ngạnh nên sinh nghi. Sự thật Lý triều đã nhân cuộc đánh phá của Nùng Trí Cao năm 1054 mà bành trướng ngầm lãnh thổ của mình bằng cách xúi biên dân người Việt lấn đất và sinh sự trong một thời gian khá dài.
Sau đó năm 1060 quan Lạng châu mục là Thân Thiệu Thái đem binh vào huyện Nhử Ngao ở châu Tây Bình thuộc địa giới nhà Tống để bắt người bỏ trốn. Bắt sống được nhóm ấy nhưng có lẫn cả Dương Lữ Tài là một viên quan nhà Tống và nam, nữ, trâu, ngựa không thể đếm xuể. Nhà Tống sai quan Lại Bộ Thị Lang là Dư Tĩnh đến Ung Châu thảo luận về việc ấy. Vua lại sai Bùi Gia Hựu tới Ung Châu bàn nghị. Dư Tĩnh đem nhiều của đút lót Bùi Gia Hựu và gởi thư cho Hựu mang về, xin vua trả lại Dương Lữ Tài. Nhà vua không xét.
Tống triều nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà từ lâu Tống coi như kẻ thù trong suốt mười năm. Tiêu Chú sau khi được phục hồi liền tới Quế Châugiao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền Đống được hiểu lúc này Lý triều thắngChiêm Thành, cướp thêm được 3 châu của người Chiêm, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt. Tiêu Chú có ư trù trừ. Nhưng đến năm 1072 vua Thánh Tông qua đời, Dương Hậu và Ỷ Lan giành nhau quyền vị.
Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) có tính hay ghen ghét, thấy bà đích mẫu (tức bà Thái hậu họ Dương ở cung Thượng Dương) được tham dự việc triều chính mới bảo vua rằng: "Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến lúc phú quý thì người khác hưởng, ăn ở như thế thì đặt ***** già này vào chổ nào?".
Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít rằng, mình không phải là con của Thái hậu Thượng Dương, bèn đem Thái hậu Thượng Dương và 72 người thị nữ ở cung Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh Tông.
Vua Lý Nhân Tông là thái tử Càn Đức lúc này mới 7 tuổi, trong triều hai đại thần văn võ là Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt chính kiến bất đồng. Tống triều hỏi ý Tiêu chú nhưng Tiêu Chú không tán thành cuộc Nam chinh. Tiêu Chú đáp: "Xưa tôi cũng có ý đấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch được mười, khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo là điều khiển được. Nay hai điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao Chỉ chưa đầy một vạn thì sợ sai.
Trái lại, Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi lại rất sốt sắng đánh Đại Việt. Vua Tống liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú làm Quảng Tây kinh lược sứ năm 1073 lo việc xuất quân.
Việc thứ nhất của Thẩm Khởi là đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai là động viên 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy chiến. Sợ Đại Việt biết, ông cấm hẳn mọi việc buôn bán, giao dịch giữa các biên dân Việt Hoa.
Việc thứ hai của Thẩm Khởi là phủ dụ các tù trưởng lệ thuộc về Lý triều theo Tống được Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn, giáp Thất Khê hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng Thiện Mỹ và việc này đă đến tai người Việt. Công việc đang tiến triển thì tháng ba năm 1074, Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối Thẩm Khởi về các hoạt động kể trên. Thêm nữa, Thẩm Khởi đă lầm lỗi trong nhiều việc nên bị đổi đi Đàm Châu và chính Vương An Thạch cũng không tin rằng Thẩm giải quyết nổi vấn đề Đại Việt. Bấy giờ vua Tống trách Thẩm Khỉ vì tội tự tiện nhận bọn Nùng Thiện Mỹ mà không hỏi, cũng không đồng ý cho Lưu Kỷ nhập Tống vì sợ nhà Lý giành lại.
Ngoài ra, lúc này Tống đang mắc vào chuyện chiến tranh với Liêu, Hạ chưa xong nên việc đánh Đại Việt phải ngừng lại.
Năm 1073 Lý Thường Kiệt đã tập trung nhiều quân ở biên giới, lộ vẻ đánh vào đất Tống.
Vua Tống được tin nhà Lý tụ binh, báo gấp cho Tô Giám là viên quan coi Ung Châu dặn rằng nếu Giao Chỉ phạm đến Ung Châu thì phải kiểm quân cố thủ, không được khinh địch (1074).
Đầu năm 1075, Tể tướng Vương An Thạch cắt đất cho nước Liêu, nhà Tống tạm yên, có thể tăng cường binh lực cho Lưu Di. Di cho đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thuỷ binh... và cấm người Việt sang buôn bán để tránh sự thám thính.
Tình hình đang căng, Lý Thường Kiệt lại đưa biểu tới triều Tống đòi lại Nùng Thiện Mỹ (thủ lãnh châu Ân Tình đã theo Tống) và bộ thuộc để trừng trị. Vua Tống từ chối trả Thiện Mỹ cho nhà Lý.
Đại Việt xét đánh trước có lợi hơn và tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải qua Ung Châu theo đường bộ và qua các cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu theo đường thủy nên họ quyết tâm phá trước các cứ điểm này của người Tống.
Diễn biến
Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm được trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận trung tuần tháng 11 mới tới được triều đình Biện Kinh của Tống tức gần tháng rưỡi. Nhưng người Tống mới chỉ nghĩ là những việc cướp nhỏ mà thôi, Tống Thần Tông còn bảo Lưu Di kể tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt.
Tháng 10 năm 1075 Thường Kiệt tập trung thủy quân Đại Việt ở Đồ Sơn (vịnh Hạ Long) theo lối sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu; còn đi đánh Ung Châu (Nam Ninh) lục quân của quân Lý cũng chia nhiều đường:
Từ Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiến đánh trại Thái Bình.
Từ hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng, Thượng Tứ.
Từ châu Quảng Lăng tiến qua Thái Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình.
Về mặt địa lý thì các vùng về phía Tây Bắc biên giới hai nước lúc này chưa định rõ, các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu ngày nay cũng không phải đất của nhà Lý, cũng không thuộc triều Tống. Biên giới mà Tống-Lý trực tiếp giao nhau là Ung Châu gồm các trại Thiên Long, Cổ Vạn tiếp giáp Vĩnh An, Tô Mậu (Quảng Ninh); trại Vĩnh Bình tiếp một phần Quang Lang (Lạng Sơn, Lạng Châu) và một phần Quảng Nguyên (Cao Bằng); các trại Thái Bình và Hoành Sơn tiếp Quảng Nguyên. Khâm Châu sát trại Thiên Long và tiếp Vĩnh An của nhà Lý ở cửa Để Trạo.
Theo kế hoạch, nếu thủy quân chiếm được Khâm Châu thì tiến thẳng lên Ung Châu. Đề phòng người Tống xâm nhập vào đất Việt, quân Đại Việt cũng chia ra đóng ở nhiều căn cứ theo dọc đường biên giới. Đại khái quân hạ du của Lý đóng ở Vĩnh An và thượng du thì theo dọc biên thùy từ các châu Quảng Nguyên, Quảng lăng, Tô Mậu. Tổng số quân Đại Việt có từ 8 đến 10 vạn.
Cùng theo quân Lý tiến công vào Tống lần này, quân số khê động không rõ, chỉ biết rằng quân man đi trận, mang cả vợ con đi theo. Có người nói với Vương An Thạch: "...Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó có nhiều đàn bà, trẻ con. Man dân kéo hết cả nhà di theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà..." để chỉ quân khê động.
Về phía nhà Tống thì quân số cả nước lúc này chỉ khoảng 380.000 người và chủ lực tinh nhuệ lại tập trung ở phía Bắc nơi phải chịu sự đe dọa từ các lực lượng xâm lăng của Hạ và Liêu. Quân Tống ở phương Nam chiến đấu kém hơn nhiều.
Phòng ngự Ung Châu gồm hai đoàn. Mỗi đoàn có 5000 quân. Giữ biên thuỳ Đại Việt, có một tướng lại chia làm hai phần: 2000 quân đóng ở thành Ung, 3000 chia đóng ở 5 trại tiếp giáp Đại Việt: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.
Khâm Châu và Liêm Châu sát biển tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn ngày nay, đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân Đằng Hải để hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thuỳ châu Vĩnh Anh và Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.
Thường Kiệt đem thủy quân đánh vào căn cứ quân sự của Tống ở ven bờ biển thuộc Quảng Đông. Cùng một lúc Tôn Đản phụ trách lục quân chia ba đường kể trên đánh vào Quảng Tây, quấy rối các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn trên tiền tuyến của Ung Châu. Hàng rào này bị đổ mặc dầu quân Tống xuất toàn lực cứu cấp nhau và chống đỡ các miền Tây và Tây Nam. Nhiều chúa trại bị tử trận (chúa trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình v.v.) Mặt Đông Nam thiếu sự phòng bị. Quân Tống bị đánh bất ngờ ở địa điểm này và tất nhiên quân Đại Việt phải đánh mạnh vào đây hơn hết.
Về phía Khâm Châu và Liêm Châu quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ, ngày 30 thág 12 năm 1075 Khâm châu bị chiếm. Ba ngày sau Liêm châu cũng mất, chúa các trại Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Viên coi Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái trước đó đã có người báo cho là Giao Chỉ sắp vào đánh, nhưng Thái không tin, đến khi chiến thuyền của Lý đã tới đến nơi, Thái vẫn còn bày rượu uống. Quân Lý đột nhập vào thành không mất người nào, bắt Vĩnh Thái và bộ hạ, lừa lấy của cải rồi đem giết hết.
Nhìn chung quân Lý với lực lượng áp đảo tiến ào ạt rồi thẳng lên Ung Châu không gặp một sức kháng cự nào đáng kể. Ở Liêm châu, vì đã biết tin Khâm châu mất nên có phòng bị đôi chút nhưng quân Lý ào ạt kéo vào, quân số lại đông hơn nhiều nên chiếm Khâm Châu rồi bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuống thuyền sau cũng đem giết sạch. Viên coi Khâm châu là Lỗ Khánh Tôn và bộ hạ cũng đều tử trận. Chỉ có 7 ngày quân Đại Việt đã có mặt ở chân thành Ung Châu.
Ngày 10 tháng chạp, Tôn Đản kéo đến Ung Châu. Cánh quân chiếm được Khâm Châu tiến lên Ung Châu. Cánh chiếm được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch.
Nửa tháng sau Ty kinh lược Quảng Tây mới hay tin về cuộc tấn công này để thông báo về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được cáo cấp về, Tống triều lại càng hoang mang thêm, sau đó có lệnh của Tống Thần Tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận- chuyển tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay quân Lý, cách chức Lưu Di, cử Thạch Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy hiếp.
Trận Ung Châu
Ngày 10 tháng chạp (18 tháng 1 năm 1076) đại quân nhà Lý cũng tới thành Ung. Mấy vạn quân của Lý Thường Kiệt, Lưu Kỷ và các tù trưởng khác vây thành Ung vài vòng kín như bưng. Tướng giữ thành là Tô Giám thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã áp dụng triệt để chính sách cố thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có thể đến nơi. Tô Giám ban đầu tin rằng Ung Châu cách Quế Châu chỉ có 14 ngày đường, nên viện binh thế nào cũng sẽ đến kịp cho nên đóng cửa thành cố thủ. Kiểm điểm binh lương, trong thành Ung lúc ấy chỉ có 2.800 quân. Dân thành Ung tất cả được gần 6 vạn người bấy giờ sợ hãi đạp nhau mà chạy. Ông đem hết công nhu (tiền công) phát hết cho dân khích lệ mọi người vững lòng, kiên trí. Kẻ nào bỏ trốn phải tội theo quân lệnh (Địch Tích là một bộ hạ dưới trướng của Tô bị chém trong trường hợp này). Ông còn phao tin viện quân không còn xa thành là bao nhiêu.
Nếu không có sự khôn ngoan khéo léo này, có lẽ quân dân trong thành Ung đã đào tẩu hết. Trước đó con Tô Giám là Tử Nguyên làm quan ở Quế Châu đem gia đình đến thăm cha, lúc sắp trở về thì thành Ung bị vây, Tô Giám lại bắt Tử Nguyên để vợ con ở lại chỉ được về Quế Châu một mình mà thôi chứng tỏ ông hăng hái quyết tâm chống lại quân Lý, được lòng quân dân lắm.
Lúc này Lưu Di tướng quân giữ Quế Châu nghe tin thành Ung bị nguy liền phái Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Đạo quân này không dám tiến thẳng đến Ung châu, đi vòng theo đường Quí Châu tới Tân Châu rồi nghe ngóng. Ung Châu bị vây gấp quá, Tô Giàm cho người mang lạp thư viết vào giấy rồi bọc trong nến mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Trương Thủ Tiết hay. Tiết bất đắc dĩ kéo quân đi, đến giữ ải Côn Lôn giữa Tân châu và Ung châu, cách Ung 40 cây số thì bị Lý Thường Kiệt cho quân đón đánh, giết luôn Trương Thủ Tiết và bắt nhiều tù binh. Việc này vào ngày 4 tháng giêng âm lịch.
Để công phá Ung Châu, mấy vạn quân Lý bắc thang mây để leo thành. Quân Tống dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc gần được. Lý Thường Kiệt lại dùng tên độc mà bắn, người ngựa trên thành chết nằm gối lên nhau. Quân Tống dùng thần tư (một loại nỏ) ra bắn. Voi và quân sĩ của Lý Thường Kiệt có nhiều người bị chết. Thành cao và cứng, đánh phá hơn 40 ngày không hạ được.
Ngày 1 tháng 3 năm 1076, Ung Châu bắt dầu nguy kịch. Quan quân Lý bắt dân Tống, sai lấy túi đất đắp vào chân thành để leo lên. Thường Kiệt theo đó mà lên đánh, thành bị thất thủ sau 42 ngày kháng cự. Tô Giám cố gắng đốc thúc cùng bọn tàn quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức ông cho 36 thân nhân tự sát rồi tự thiêu mà chết.
Kết quả
Việc nhà Lý đánh Liêm Châu, Khâm Châu và Ung châu, quân dân Trung Quốc bị hại vào khoảng 7-10 vạn người, và có tới hàng ngàn người bị bắt đem về Đại Việt cùng nhiều của cải nữa. Còn chuyện đánh Ung Châu trước sau mất hơn một tháng. Quân Đại Việt cũng có phần mệt mỏi. Lý Thường Kiệt hạ lệnh rút binh vì mục đích bấy giờ chỉ có ý đánh vào đất Tống để phá thế xâm lăng mà thôi.
II. GIAI ĐOẠN THỨ HAI (1076-1077)
1 Kháng chiến bùng nổ.
* Chuẩn bị:
- Sau khi rút quân khỏi thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt cho quân bố phòng:
+ Cho quân mai phục ở biên giới.
+ Cử Lý Kế Nguyên giữ vùng biển Quảng Ninh để chặn quân thủy.
+ Xây dựng phòng tuyến Sông Cầu (sông Như Nguyệt), do Lý Thường Kiệt chỉ huy gồm cả quân thủy và quân bộ.
Phòng tuyến sông Cầu xây dựng ở bờ Nam sông Như Nguyệt ( sông Cầu), đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Trung Quốc vào Thăng Long, phòng tuyến dài 100km được đắp bằng đất cao, vững chắc. Được ví như chiến hào tự nhiên, khó vượt qua.
* Diễn biến:
Cuối năm 1076 quân Tống tấn công nước ta bằng 2 cánh quân thủy bộ:
+ Quân bộ do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu. Quân thủy do Hòa Mâu dẫn đầu.
+ Quân bộ vượt ải Nam Quan vào Lạng sơn bị Thân cảnh Phúc chặn đánh phải dừng lại ở bờ bắc sông Như Nguyệti, chờ quân thủy tiếp viện, nhưng quân thủy đã bị Lý kế Nguyên đánh bại.
2. Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt.
- Chờ mãi không thấy thủy quân đến, Quách Qùy cho đóng bè 2 lần vượt vượt sông,bị ta phản công, đẩy lùi chúng về bờ bắc.
- Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, Lý Thường Kiệt cho người vào đền bên sông ngâm bài thơ "Nam Quốc Sơn Hà".
- Thất vọng, Quách Quỳ ra lệnh "Ai còn bàn đánh sẽ bị chém" và chuyển sang củng cố phòng ngự.Quân Tống mệt mỏi,, lương thảo cạn dần,chán nản, bị động.
- Cuối xuân năm 1077, quân Lý Thường Kiệt, bất ngờ tấn công đánh mạnh vào trại giặc, quân Tống thua to,tuyệt vọng phải chấp nhận giảng hòa và rút quân.
* Ý nghĩa:
- Cuộc chiến ở Như Nguyệt là trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm.
- Nền độc lập tử chủ của Đại Việt được củng cố.
- Nhà Tống từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.
* Nguyên nhân thắng lợi:
- Tinh thần đoàn kết các dân tộc, tinh thần yêu nước,quyết chiến,quyết thắng của nhân dân ta.
- Tinh thần chủ động, tích cực trong chiến lược, chiến thuật của vua tôi nhà Lý, tài chỉ huy của Lý Thường Kiệt.
* Cách đánh độc đáo của Lý Thường Kiệt:
- Tiến công thành Ung Châu để tự vệ.
- Chủ động xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt để chận địch vào Thăng Long.
- Phòng thủ để địch chán nản và mệt mỏi.
- Chủ động giảng hòa để giữ danh dự cho nhà Tống.
* Ý nghĩa lịch sử của kháng chiến chống Tống:
Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi:
- Độc lập được giữ vững.
- Đem lại cho nhân dân niềm tự hào sâu sắc.
- Lòng tin tưởng ở sức mạnh và tiền đồ của dân tộc.
Nguồn : Lazi.vn
Diễn biến:-Cuối năm 1076,quân Tống tấn công vào nước ta gồm 10 vạn bộ binh,1 vạn ngựa,20 vạn dân phu.
-Tháng 1 năm 1077,10 vạn quân do Quachs Qùy và Triệu Tiết chỉ huy vượt qua biên giới.
-Ta đánh nhiều trận nhỏ cản địch.
-Lý Kế Nguyên đã đánh 10 trận liên tiếp để cản thủy quân.
*)Trên sông Như Nguyệt:-Quachs Qùy cho quân vượt đánh phòng tuyến,ta phản công quyết liệt.
-Cuối Xuân năm 1077,Lý thường Kiệt cho quân đánh bất ngờ vào đồn giặc
Kết quả: Giặc đi 10 phần chết 5;6 phần . Địch chấp nhận giảng hòa và rút về nước.