Dàn ỳ cho đề tm về chiếu cói
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
dàn ý thuyết minh về cây Dừa số 1
Mở bài
Giới thiệu cây dừa
Thân bài
– Tả và biểu cảm cây dừa
- Lựa chọn: Tả thân, lá, hoa, quả
– Kể các kỉ niệm gắn bó với cây dừa
- Đua xe bằng tàu dừa.
- Làm cào cào bằng lá dừa.
- Trèo dừa bắt tổ chim.
- Mỗi buổi chiều học bài dưới gốc dừa
- Có những niềm vui, nỗi buồn gì cũng tâm sự với cây dừa.
– Lợi ích kinh tế
- Nước dừa tươi
- Mứt dừa.
- Các bà, các mẹ, các chị khi nấu chè hay xôi không thể thiếu nước cốt dừa.
- Trong các món ăn làm từ dừa, tôi thích nhất là món thịt kho dừa.
- Kẹo dừa là đặc sản Bến Tre.
- Dừa làm đũa, muỗng, dép trong nhà.
Kết bài
Nêu cảm nghĩ của bạn về cây dừa
Đâu không phải là một trong những nghề thủ công ở nước ta?
A. Lụa tơ tằm, hàng cói, gốm sứ.
B. Lụa tơ tằm, gốm sứ, hàng thủ công mĩ nghệ.
C. Gốm chăm, chạm khác đá, lụa tơ tằm.
D. Chạm khắc đá, hàng cói, dệt chiếu có
Bài làm
+ Mở bài:
– Ca dao, tục ngữ không những phản ánh những kinh nghiệm trong cuộc sống mà còn những hầm ý chúng ta ít ai biết được. Trong đó có câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
+ Thân bài
– Giải thích câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần dèn thì sáng”
Nghĩa đen theo chúng ta hiểu ở đây mực là loại mực tàu ngày xưa có màu đen tuyền dùng viết bút lông trên giấy gió, khi viết người ta thường chấm bút lông vào mực để viết nếu sơ ý mực dính tay thì sẽ bị bẩn rất khó sạch
– Đèn: là một vật dụng được thắp sáng trong gia đình, đây là một dụng cụ rất hữu ích. Nó giúp người ta nhìn thấy trong bóng tối.
“Mực” ám chỉ những con người xấu xa, không có ích trong xã hội
“Đèn”: ở đây chỉ hình ảnh ánh sáng, những người tốt sống có ích và được nể trọng trong xã hội, đại diện cho chuẩn mực đạo đức.
– Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” nhằm khuyên nhủ con người ta nên biết chọn bạn mà chơi, biết chọn hướng đi đúng trong hoàn cảnh sống quyết định mỗi con người, hoàn cảnh tốt thì cn người tốt, yêu thương chan hòa
– Nhằm giáo dục con người nên tránh xa những hoàn cảnh, con người xấu để tránh bị dính vào người như dính mực vừa bẩn vừa khó làm sạch .
– Là một học sinh chúng ta nên chọn bạn mà chơi, tránh xa các tệ nạn xã hội như game, ma túy, cờ bạc. Nên tích cực học tập, nghe lời thầy cô cha mẹ để xứng đáng là con ngoan trò giỏi , có ích trong xã hội
– Nên biết giúp đỡ những bạn khó khăn hơn mình, những bạn có lối sống lệch lạc cần giúp các bạn nhìn ra điều sai trái để đi đúng hướng.
+ Kết bài
– Câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là một câu tục ngữ hết sức ý nghĩa. Câu tục ngữ khuyên ta nên học những điều hay lẻ phải và tránh xa những điều sai trái, xấu xa. Để trở thành một con người tốt và ý nghĩa, chúng ta nên học tập theo câu tục ngữ.
Đề 1 :
I.MỞ BÀI
- Làm việc tốt chắc chắn sẽ mang đến niềm vui cho cha mẹ, thầy cô và mọi người xung quanh.
- Lần làm một việc tốt khiến cho ba mẹ tôi vui lòng đó là: giúp đỡ một bà cụ đi qua đường.
II. THÂN BÀI
- Hoàn cảnh
- Hôm ấy, tôi thức dậy trễ nên chạy thật vội để đến trường.
- Trên đường đi học, tôi nhìn thấy một bà lão đang muốn băng qua đường.
- Thế nhưng bà lão còn rụt rè, lo sợ vì thấy trên đường xe quá nhiều, bà không dám băng qua.
- Tôi đắn đo suy nghĩ: một là giúp bà lão qua đường, hai là bị trễ giờ học. Tôi phải lựa chọn một trong hai.
- Tôi quyết định giúp bà lão băng qua dường dù biết rằng mình có thể sẽ bị trễ giờ học.
- Giúp bà qua đưòng
- Tôi chạy tới gần bà và hỏi thăm, bà có sao không?
- Bà lão trả lời là muốn qua bên kia đường nhưng vì sợ xe nhiều quá nên không dám.
- Tôi đưa ra nhã ý giúp bà băng qua đường. Bà vui vẻ nhận lời.
- Một tay cầm lấy tay bà. Bàn tay ấm áp, run run của bà cũng giống như bà của tôi vậy. Tay còn lại của tôi giơ cao ra hiệu qua dường để các chú tài xế nhìn thấy mà nhường cho bà cháu chúng tôi.
- Đưa bà lão qua được bèn kia đường, lòng tôi cảm thấy rất vui và tự hào.
- Bà lão hỏi tên tuổi của tôi, tôi học trường nào. Tôi nói, tôi phải tới trường ngay sợ trễ giờ.
- Tôi tới trường vừa kịp chuông reo.
- về nhà, tôi kể cho ba mẹ nghe sự việc khi sáng với vẻ rất háo hức.
- Ba mẹ tôi khen tôi là trẻ ngoan và tự hào về tôi vì đã biết giúp đỡ người lớn tuổi.
III.KẾT BÀI
- Đó là lần tôi làm việc tốt mà tôi cảm thấy rất vui và tự hào.
- Tôi hứa với bản thân mình sẽ cố gắng làm thật nhiều việc tốt để ba mẹ, thầy cô vui lòng.
Đề 2 :
- Mở bài:
- Thầy Hoàng là người đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.
- Thầy đã dạy em ở năm học vừa qua.
- Thân bài:
a) Tả ngoại hình:
- Ngoài bốn mươi tuổi.
- Dáng người cao.
- Nước da ngăm đen.
- Mái tóc điểm bạc.
- Thường mặc bộ veston màu nâu sẫm.
- Thường đeo kính trắng.
- Đôi mắt sâu, hiền từ.
- Miệng hay tươi cười.
- Hàm răng trắng, đều đặn.
- Bàn tay xương xương có nổi đường gân.
b) Tả tính tình:
- Quan tâm đến học sinh.
- Quan tâm đến tất cả mọi người.
- Giúp đỡ đồng nghiệp.
- Yêu nghề dạy học.
- Tận tụy với công việc.
- Mong học trò khôn lđn, nên người.
- Dìu dắt nhiều học trò thành đạt ở tương lai.
- Kết bài:
- Em luôn nhớ về thầy.
- Xem thầy như người cha thứ hai của mình.
- Em ra sức học tập để không phụ lòng thầy.
de2
mo bai
gioi thieu ve thay co cu ma em dinh ta
than bai
ta ngoai hinh , tinh cach cua thay co dinh ta
ke ve ki niem cua em voi thay co do
ket bai
noi ve tinh cam cua em doi voi thay co
minh chi biet lam de 2 thui
Chiếu Cẩm Nê
I. MỞ BÀI
- Cái chiếu là một vật dụng giản dị nhưng chứa đựng ý nghĩa lớn lao.
- Là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc vợ chồng, hay dùng để chúc thọ theo từng loại và cách trang trí cho chiếu.
II. THÂN BÀI
- Nếu trở lại trang sử xưa, nghề dệt chiếu ở vùng Quảng Nam có từ kha dời, cùng thời với nghề chiếu ở Quảng Bình và Thừa Thiên.
- Ở Ọuảng Nam có hai làng làm nghề dệt chiếu nổi tiếng. Ngoài làng Cẩm Nê còn có làng Bàn Thạch.
- Nhưng về nguồn gốc nghề chiếu ở vùng này, khi đến Cẩm Nê gặp các cụ cao tuổi hỏi chuyện, thì các cụ có kể lại rằng: Câu chuyện truyền miệng từ xa xưa cho tới đời các cụ thì nghề chiếu của vùng này gốc tích từ vùng Nga Sơn - Thanh Hoá đưa vào.
2. Cách làm
- Muốn có nguyên vật liệu để dệt chiếu như đay, lác phái đi đến các vùng xa trong tỉnh mua về sử dụng.
- Cẩm Nê dệt nhiều loại chiếu, khổ rộng, khổ hẹp. dệt chiếu trơn và dệt chiếu hoa.
- Chiếu dệt xong đem phơi Hẩng, vừa để cho lá chiếu trang sáng bóng, vừa cho khô giòn những dầu thừa thòi ra trên mặt lá chiếu của sợi lát, sợi đay, để dùng dao sắc, phạt cho đút hết.
- Loại chiếu hoa ở cẩm Nê không phải dệt chiếu trắng xong mới dùng khuôn in hoa lên trên nên như một số vùng khác mà phải chọn sợi lác về nhuộm phẩm, màu sắc tuỳ theo người chủ.
- Màu đỏ, màu xanh, màu lục, màu vàng,... Phẩm nấu lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nạm một và đem phơi.
- Một nạm lác có thể nhuộm một hoặc hai ba lần tùy màu phẩm và độ pha chế đậm nhạt.
- Những sợi lác màu sau khi phơi khô được đem dệt chiếu hoa.
- Dệt chiếu hoa nhiều công phu. Ngoài việc chọn và nhuộm sợi lác công phu còn phải dùng sợi đay mắc canh cửi thật khéo léo.
- Mắc cửi đơn hay kép, mặt cửi chạm khô (go) dệt sẽ điều khiển khổ cho nổi lên những hình hoa vãn trên mặt chiếu. Công phu nữa là người cầm khổ dệt ngồi trên và giữa mặt cửi đay.
- Với sự sắp xếp hình dáng hoa văn và bông hoa hoặc chữ nghĩa (như chữ Thọ, chữ Song Hỷ) trong đầu, khi ngồi vào khung dệt, tay cầm khổ dệt đồng thời các ngón tay phải điều khiển các sợi đanh đay hoặc nâng lên đè xuống, hoặc cái ba cài hai để khi con thoi đưa sợi lác vào cho ăn khớp tạo nên hoa trên mặt chiếu. có thể nói người cầm cái khổ dệt chiếu đồng thời là một họa sĩ trang trí trên mặt chiếu.
- Không phải bằng bút lông mà là bằng đôi tay điều khiển cái khổ và mùi thoi của mình.
- thưòng thường trên một chiếc chiếu hoa, ở giữa là chữ Thợ, dùng trải ở đình ang, các phản nhà lớn... hoặc chữ Song Hỷ nếu dệt cho đám cưới... Còn ở bốn góc thì là tứ linh hoặc bốn hoa văn lớn, bốn góc chung quanh có hoa văn trang trí nhiều kiểu, nẹp ngoài hai đường kẻ hoặc đỏ hoặc xanh, trông rất trang nhà hài hoà. Chiếu hoa dệt lát nhuộm sần, hoa văn nối cả hai mặt chiếu, một mặt chính một mặt phụ chứ không như chiếu in hoa chỉ có hoa ở một mặt trên.
- Một công phu cùa nghề dột chiếu ở dây nữa là chọn cây để làm khố (go) và thoi dệt. Phải chọn loại cây nào thật thẳng, nhẹ và bền... Vùng Cẩm Nê, người ta thường dùng cây cau già đè làm go và thoi dệt.
Hai người, một người giữ khổ, một người cầm thoi, dệt liên tục trong mười tiếng đồng hồ được một đôi rưỡi hoặc hai đôi chiếu, tùy loại đỏ là chiêu hoa hay chiếu trơn, khố rộng hav khổ hụp.
- Chiếu dệt xong đem trải khắp sân; khắp vườn, phoi để cho chiếu nguội và hoàn tất một phần việc cuối cùng: ghim các đầu dây đay để cho các sợi lác hai đầu chiếu khôi bung ra. Công việc này cũng phải khéo tay và có cặp mắt mỹ thuật, không thì chiếc chiếu sẽ lệch.
- Ngoài những loại chiếu người ta đặt dệt hoặc chiếu thường để bán quanh vùng, trong làng có một số người mua sỉ chiếu để dồn lại và đóng gói từng bó mười đôi một, thuê ghe bầu hoặc tàu hỏa chở ra vùng Thừa Thiên, Quáng Trị bán. Nếu thị trường Quảng Trị ưa thích chiếu cẩm Nê trơn, thì thị trường Thừa Thiên, nhất là Huế lại thích dùng chiếu hoa có chữ Thọ.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sư. làng chiếu Cẩm Nê cùng bao phen lận đận với nghề. Tuy nhiên, đến nay, nhờ những đôi bàn tay khéo léo, đức tính cần cù và sự sáng tạo của người dân Hòa Tiến, làng chiếu Cẩm Nê vẫn ngày một phát triển và sản phẩm chiếu cầm Nê vẫn là một trong những sản phấm được người dân miền Trung nói riêng, nhân dân ca nước nói chung rất ưa chuộng, tin dùng.
III. KẾT BÀI
- Một vật dụng rất lắm ích dối với con người.
- Để làm được một cái chiếu đòi hỏi lảm công phu cùa người thợ. Vì vậy, chúng ta cần phải trân trọng và gìn gìn.
“Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông”. Nói đến mảnh đất Nga Sơn, Thanh Hóa, ngoài truyền thuyết về “Mai An Tiêm”, thì chiếu cói là một sản phẩm nổi tiếng của vùng đất ven biển này. Đây là sản vật cống phẩm tiến dâng triều đình, được các bậc vua chúa, quý tộc thời xưa ưa dùng, là biểu tượng cho niềm hạnh phúc của đôi,... trải qua hàng trăm năm lịch sử, tiếng thơm của nghề truyền thống này vẫn lưu truyền đến hôm nay.
Theo lời kể của những người có thâm niên trong nghề dệt chiếu thì chiếu cói Nga Sơn là một trong những vật cống tiến triều đình, được các bậc vua chúa, quý tộc xưa ưa dùng.
Cói Nga Sơn nổi tiếng là sợi nhỏ, dai, óng mượt, điều đặc biệt là không có nơi nào trồng được loại cói dài như nơi đây, loại cói chuyên dùng để dệt nên những tấm chiếu vừa đẹp vừa bền. Để làm ra cây cói, người dân phải vất vả một nắng hai sương chăm sóc, bảo quản.
Khi trồng cói phải chăm sóc rất kỳ công. Ngoài việc nhổ cỏ gà và những cây sậy mọc chung với cây cói, chúng tôi còn phải đảm bảo nguồn nước đều, không ngập quá thân cây… Vào tháng 6 đến tháng 9 hàng năm, khi cây cói cao khoảng 1,7 m đến 1,8 m thì dùng liềm để thu hoạch và phân loại cói. Sau khi thu hoạch xong, cói được phân thành 3 loại: loại dài nhất là 1,75 m (dùng để dệt chiếu loại 1,6 m và 1,5 m), loại trung bình dài khoảng 1,5 m và loại ngắn nhất (loại này dệt chiếu cá nhân 0,9-1,0 m). Còn lại là những cây cói chết gọi là "bổi". Bổi thường được dùng để đun nấu và lợp nhà.
Khi dệt chiếu những người thợ dùng đay đã được kết sẵn thành sợi mắc lên thành từng hàng theo chiều dài, sợi nọ cách sợi kia khoảng 1 cm trước khi mắc đay phải xuyên những sợi đay qua lỗ cái "go". Để dệt được một lá chiếu đẹp thì 2 người mất khoảng 3 - 4 giờ đồng hồ. Nếu dệt chiếu cải hoa thì phải nhuộm Cói bằng phẩm màu, và phải mất 1 ngày 2 người mới dệt được một lá chiếu.
Nếu có dịp đến Nga Sơn, hãy ra chợ làng nghề huyện để ngắm chiếu. Trên trời, dưới chiếu. Màu chiếu biêng biếc, vàng mơ áng lên sắc đỏ của những chiếc chiếu hoa, chiếu cưới, chiếu lễ hội sân đình.. Muôn màu chiếu tạo nên vẻ đẹp cho một làng nghề không trộn lẫn với bất cứ làng nghề nào khác; Ấy là vẻ đẹp riêng, đặc sắc Nga Sơn.