Hồi hop qu
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Những tháng năm xa quê,giông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả,nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy,những dòng kinh biêng vẫn lặng lờ trôi.Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa,mù mịt khói rạ,thương vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau Tết.Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thẳm cảnh khuya.Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì,nghiêng nghiêng bên miền núi
Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ về hiện tại về vấn đề gì? Đề này chung bạn cho rõ đề hơn nhé
Những tháng năm xa quê,giông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả,nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy,những dòng kinh biêng vẫn lặng lờ trôi.Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa,mù mịt khói rạ,thương vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau Tết.Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thẳm cảnh khuya.Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì,nghiêng nghiêng bên miền núi
Những tháng năm xa quê,giông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả,nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy,những dòng kinh biêng vẫn lặng lờ trôi.Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa,mù mịt khói rạ,thương vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau Tết.Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thẳm cảnh khuya.Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì,nghiêng nghiêng bên miền núi
Bệnh tình của Giôn-xi ngày càng nặng. Tôi và cụ Bơ-men hết sức lo lắng tìm mọi cách động viên, cố giữ cô ta lại với cuộc sống. Bởi Giôn-xi đã suy sụp tinh thần và đang nghĩ đến cái chết của mình từng ngày, từng giờ như sô" phận mong manh của chiếc lá thường xuân cuối cùng nơi cửa sổ cô nằm trong đêm mưa tuyết dữ dội.
Sáng hôm ấy, tôi vừa tỉnh dậy thì thấy Giôn-xi đang thẫn thờ nhìn tấm mành mành che kín cửa sổ và thều thào ra lệnh:
- Kéo nó lên, em muốn nhìn!
Tôi lo lắng kéo tấm mành lên. Nhưng, ô kìa! Sau một đêm mưa tuyết dữ dội, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Chiếc lá cuốicùng vẫn chưa rụng.
Giôn-xi nói với tôi: “Em cứ tưởng là nhất định trong đêm qua nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”.
Tôi hốt hoảng cúi xuống sát gối Giôn-xi, nói như van xin: “Em thân yêu, em hãy nghĩ đến chị. Chị sẽ làm gì đây nếu không còn em nữa?”.
Giôn-xi không trả lời. Cô đang nghĩ đến cái chết sắp đến đưa cô đi.
Ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, tôi và Giôn-xi vẫn trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc níu vào cái cuống của nó trên tường. Rồi đêm buông xuống và gió bấc lại ào ào, mưa tuyết vẫn đập mạnh vào cửa sổ nơi Giôn-xi nằm. Tôi thầm nghĩ không biết sốphận của chiếc lá và cô gái sẽ sao đây?
Hôm sau, khi trời vừa hửng sáng thì Giôn-xi lại ra lệnh kéo mành lên. Thật tàn nhẫn nhưng... thật lạ quá! Tôi không tin vào mắt mình nữa! Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó.
Tôi thấy Giôn-xi nhìn chiếc lá hồi lâu. Rồi Giôn-xi gọi tôi khi tôi đang quấy món cháo gà trên lò hơi đốt và nói với tôi những câu rất lạ:
- Em thật là một con bé hư, có phải không chị Xiư thân yêu? Có một cái gì đây đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muôn chết là một tội.
Cô nói líu ríu với tôi như một đứa em gái nhỏ làm nũng chị:
- Giờ thì chị có thể cho em xin tí cháo và chút sữa pha ít rượu vang đỏ và - khoan - chị hãy đưa cho em một chiếc gương tay trước đã, rồi xếp mấy chiếc gốilại quanh em, để em ngồi dậy xem chị nấu nướng.
Sau đó một tiếng đồng hồ, Giôn-xi nói với tôi trong ánh mắt tươi vui chưa từng có:
- Chị Xiu thân yêu ơi! Một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ.
Buổi chiều bác sĩ đến khám bệnh cho Giôn-xi. Khi tiễn ông ra về, ông chobiết bệnh tình của Giôn-xi đã giảm được năm phần mười rồi. Tôi biết có công của tôi, công của bác sĩ, nhưng cái sức mạnh chủ yếu đã kéo Giôn-xi lại với cuộc sống chính là chiếc lá thường xuân cuối cùng đã không rụng xuống sau hai đêm mưa tuyết dữ dội, sau hai lần Giôn-xi ra lệnh kéo mành lên. Không phải chiếc lá thật mà là chiếc lá cuối cùng do cụ Bơ-men vẽ - một kiệt tác cụ để lại trước khi qua đời để cứu sống cô, mà sau đó tôi mới biết và kể lại cho Giôn-xi nghe.
Sáng hôm ấy, lúc tôi tỉnh dậy sau khi vừa chợp mắt vài giờ đồng hồ đã thấy Giôn –xi đang mở to cặp mắt với một vẻ thẫn thờ nhìn tấm mành màu xanh dã được kéo xuống. Giôn-xi thều thào ra lệnh cho tôi kéo tấm mành lên. Tôi làm với một cách chán nản. Khi tấm mảnh được kéo lên, tôi và Giôn-xi ko khỏi bất ngờ khi thấy vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch sau trận mưa tối qua. Giôn-xi nhìn chiếc lá hồi lâu roi gọi tôi đang quấy món cháo gà trên lò hơi đốt. giôn-xi nói:
- Em thật là một con bé hư…xem chị nấu nướng.
Buổi chiều bác sĩ nói với tôi giôn-xi đã khỏe ,chỉ cần chăm sóc thôi. Tôi biết rằng Giôn-xi đã khỏe lại nhờ chiếc lá – kiệt tác mà cụ Bơ-men đã vẽ trước khi mấtmà sau này tôi mới biết
Tham khảo:
Tình yêu quê hương đất nước là nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi nhân từ xưa đến nay. Nếu nỗi nhớ quê trong "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch là sự khắc khoải, da diết với ánh trăng vằng vặc của ngày xưa thì "Hồi hương ngẫu thư" của Lý Bạch khắc họa một nỗi buồn thương, nuối tiếc của một cố nhân về thăm chốn cũ. Bài thơ tuy đã lâu nhưng vẫn còn giá trị nổi bật với tình yêu quê hương đi sâu vào lòng người đọc.
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
(Khi đi trẻ, lúc về già)
Bài thơ mở đầu với một câu chuyện về một người con xa quê đã lâu, nay mới có dịp về thăm lại cố hương. Khoảng thời gian mấy chục năm mà ngỡ như mới hôm qua bởi với tác giả, hình bóng quê hương vẫn luôn nguyên vẹn và đủ đầy như thuở ấu thơ. Hai cặp từ đối lập: đi - về, trẻ - già cho thấy sự khắc nghiệt của thời gian, của tuổi tác và cả của hoàn cảnh sống. Khi tác giả ra đi, đó là thời trai trẻ đầy khí thế, với sức khỏe và niềm tin. Vậy mà khi ông trở lại, tuổi đã xế chiều, tóc đã điểm hoa râm. Có vậy mới thấy, trong giọng thơ của Hạ Tri Chương phảng phất một chút tiếc nuối, một chút bi thương cho thời gian khắc nghiệt, đã lấy đi những gì đẹp đẽ nhất, xuân sắc nhất của con người. Khắc nghiệt là thế, bi thương là thế nhưng đến câu thơ thứ hai, tác giả lại khiến người đọc bồi hổi bởi cụm từ "Hương âm vô cải":
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
(Giọng quê vẫn thế tóc đà khác bao)
Bao nhiêu năm phiêu bạt cùng sương gió, con người đã khác xưa, khuôn mặt, mái tóc đã ít nhiều thay đổi, vậy mà có duy nhất một thứ không đổi thay đó chính là "giọng quê" thân thương mà trìu mến. Cái giọng quê - ấy chính là cái dấu hiệu nhận biết đặc biệt nhất, rõ ràng nhất tình yêu và sự thủy chung son sắt của con người dành cho quê hương. Phải là người yêu quê hương nhiều lắm mới có thể giữ gìn cái hồn của quê hương từ trong giọt máu, trong chính giọng nói của mình như vậy.
Tác giả yêu quê hương là thế, mong được trở về quê hương là thế. Vậy mà một sự việc xảy ra khiến ông không khỏi buồn thương, xót xa:
"Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiểu vấn: Khách tòng hà xứ lai"
(Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?)
Ôi chao, lời nói của con trẻ tưởng đùa mà hóa ra rất thật. Nó như chà xát vào vết thương lòng của tác giả, khiến ông nhận ra rằng mình đã không còn trẻ nữa. Sự khắc nghiệt của thời gian không chỉ in hằn trên năm tháng mà còn in hằn trong những kỉ niệm của ông về quê hương xứ sở. Tác giả tự nhận thấy rằng mình đã già, không còn chạy đua được với thời gian và sức trẻ. Đặt chân lên chính quê hương của mình nhưng ông buồn bã nhận ra, giờ đây mình chỉ còn là "vị khách" xa lạ, không ai biết mặt. Điều đó thật xót xa làm sao. Những thế hệ của ông nay đã già đi để nhường chỗ cho những thế hệ khác nối tiếp. Những bạn bè cùng trang lứa nay mỗi người một ngả, không còn gặp nhau hay tụ hợp như trước kia nữa. Càng nuối tiếc bao nhiêu, ta lại càng cảm nhận thấy sự khao khát muốn níu kéo thời gian của tác giả. Bởi chỉ có thời gian mới có thể giúp ông lưu giữ kỉ niệm, lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông dành cho quê hương. Có vậy mới biết được tấm lòng sâu nặng của Hạ Tri Chương đối với quê hương của mình. Trong lòng con người luôn mang hình bóng của quê hương xứ sở, bởi vậy, họ cũng khát khao quê hương sẽ nhớ đến mình, nhớ đến người con yêu quê hương tha thiết. Đó là niềm khao khát nhân bản của một tấm lòng đẹp, một thi nhân luôn thiết tha với đời.
Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương trong bài thơ là một tình yêu bao la và vị tha. Tình yêu ấy luôn dào dạt trong trái tim ông dù ông biết quê hương đã nhiều đổi thay mà không còn nhớ đến mình. Từ đó, gieo vào lòng độc giả những thổn thức cùng sự đồng cảm, sẻ chia.
Chúc bạn học tốt!
Có thể, trên thế giới này, người quan trọng nhất của con là mẹ. Mẹ trong tim của con là một thiên thần tốt bụng. Mẹ vừa làm mẹ, vừa làm cha gánh trên vai mình bao nhiêu là khó khăn nhưng không hề tha thở gì. Tuy mẹ không hền nói cho con biết những điều đó nhưng trên khung mặc mẹ đã nói hết cho con. Mặt đen rạm, hốc hác đi và dáng người ốm o vì mưa nắng chén cơm chiều. Còn con, con thật hư phải không mẹ ? Con không thể phụ giúp gì cho mẹ cả. Con không thể bao đền công ơn của mẹ thì mẹ đã đi xa con rồi. Con không thể cho mẹ một giấc ngủ bình an như mẹ đã cho con. Con không thể cho mẹ cuộc sống an nhàn. Nhưng sao mẹ không trách con, sao vẫn thương con, an ủi con,... mà vẫn nói là con ngoan con giỏi rồi ? Nhưng giờ thì con đã hiểu rồi, con cảm ơn mẹ nhiều lắm ! Thì ra, mẹ chỉ mong rằng con sẽ học thật giỏi để sau này không khổ, không cực như mẹ. Tôi mong, những ai còn mẹ thì ngay bây giờ hãy ôm mẹ và nói cảm ơn vì những gì mẹ đã làm cho ta và xin lỗi khi làm mẹ khóc vì nước mắt người mẹ toàn rơi vì con mình. Mẹ ơi, trên trời mẹ hãy nhìn con, dõi theo con, con sẽ không phụ lòng mẹ đâu, mẹ yêu !
Năm ta kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt Vũ Văn Nhậm, sợ thanh thế Tây Sơn, sau khi ta rút về Phú Xuân, Lê Chiêu Thống hèn hạ sang cầu cứu triều đình Mãn Thanh. Giặc Thanh chỉ đợi có thế, ồ ạt kéo sang, nhân cơ hội này muốn thôn tính nước ta làm quận, huyện. Được tin, ta vô cùng căm giận. Ta căm lũ giặc tham tàn, độc ác ; giận lũ vua quan bù nhìn bán rẻ đất nước. Lòng ta như lửa đốt, đứng ngồi không yên. Ta liền bàn bạc với tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng lúc này lòng dân chưa yên, ta đành nghe theo lời khuyên của quần thần, tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế rồi mới hạ lệnh xuất quân.
Xong xuôi mọi việc, ta đại hội binh mã thuỷ bộ, sắp sẵn kế hoạch tiến đánh, mở cuộc duyệt binh, an ủi và kêu gọi binh sĩ đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm, mở tiệc khao quân, chia thành 5 đạo, thân hành cầm quân ra trận. Tối 30 tết lên đường, thời điểm mà quân giặc chủ quan nhất. Ta hẹn chắc chắn với tướng sĩ là ngày mồng 7 tết sẽ dẫn đại quân vào mở tiệc ăn mừng thắng lợi giữa kinh thành Thăng Long.
Quân ta ra đến sông Gián, binh lính giặc trấn thủ ở đó tan vỡ. Toán quân Thanh đi do thám bị bắt sống hết. Nửa đêm mồng 3 tết Kỉ Dậu (1789), quân tiến tới Hà Hồi, Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín thành, bắc loa gọi vào trong. Chỉ đến lúc đó, quân giặc mới biết, rụng rời sợ hãi xin hàng, bao nhiêu lương thực khí giới đều bị quân ta tịch thu.
Mờ sáng mồng 5 tết, quân tiến sát đồn Ngọc Hồi. Ta truyền lệnh lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người khiêng một bức dàn thành trận chữ "nhất".
Nhân gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra để tiêu diệt quân ta nhưng không ngờ trời lại đổi gió nam thiêu đốt lại bọn chúng. Quân Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp lên nhau mà chết. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Lường trước rằng thế nào quân Thanh cũng tìm lối chạy trốn, ta bèn sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống đánh nghi binh ở phía đông. Quân Thanh tháo chạy trông thấy lại càng hoảng sợ bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều. Ta lại cho quân đón đường, dồn giặc xuống đầm Mực, cho voi giày đạp khiến quân giặc kinh hồn bạt vía, chết như ngả rạ. Giữa trưa hôm ấy, quân ta tới thành Thăng Long. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị bấy giờ vẫn đang vui yến tiệc, nghe tin cấp báo, sợ mất mật, không kịp mặc áo giáp bỏ chạy. Tướng sĩ chen chúc, giẫm đạp lên nhau đến nỗi các cây cầu không chịu nổi đều bị đứt sập. Sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn. Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng chạy trốn sang Trung Quốc.
Ta vô cùng sung sướng vì đã trả được món nợ nước, rửa sạch vết nhơ nô lệ. Ta đường hoàng dẫn quân vào kinh thành Thăng Long, mở tiệc khao quân mừng thắng lợi. Hôm ấy vẫn đang ngày mồng 5 Tết Kỉ Dậu.
I. Đọc hiểu văn bản:
Câu 1: Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ có sự độc đáo là:
Nếu đọc nhan đề ta có thể nhận thấy tác giả lúc đầu không có ý định làm thơ khi vừa đặt chân về quê hương nhưng khi về đến nơi, tác giả bị coi là khách nên tác giả mới làm thơ. Vì vậy, bài thơ đã thể hiện tình yêu một cách rất khác đó là: tình yêu quê hương thể hiện ngay khi mới đặt chân về đến quê.
⟹ Tình yêu quê hương sâu nặng, luôn thường trực trong lòng tác giả nên ở bất cứ tình huống nào, nơi đâu thì nó cũng có thể bộc lộ được.
Câu 2:
Hai câu đầu đã sử dụng phép đối trong câu (tiểu đối) khá chuẩn và chính xác:
Thiếu tiểu li gia – lão đại hồi, hương âm vô cải – mấn mao tồi. Mỗi câu có 2 vế, mỗi bộ phận trong mỗi vế đối nhau rất chỉnh.
+, Li gia (rời nhà) đối với đại hồi (trở về).
+, Hương âm (giọng quê hương) đối với mấn mao (tóc mai).
⟹ Đối chỉnh cả lời và ý
+, Thiếu tiểu (lúc nhỏ) đối với lão (về già)
+, Vô cải (không thay đổi) đối với tồi (thay đổi)
⟹ Ý rất chỉnh, đọc lên rất hài hòa.
* Tác dụng của việc dùng phép đối đó là: đã cho ta thấy được ý nghĩa của cuộc đời xa quê của tác giả.
Câu 3:
- Câu 2 là câu miêu tả: về sự thay đổi của mái tóc nhưng giọng quê, tình cảm sâu nặng với quê vẫn vậy.- Câu 1 là kể khái quát, ngắn gọn quãng đời xa quê, làm quan nổi bật sự thay đổi vóc dáng, tuổi tác, hé lộ những tình cảm quê hương của nhà thơ. Đó là cảm xúc buồn buồn , bồi hồi trước sự chay trôi của thời gian.
Câu 4:
- Giọng điệu của hai câu đầu tuy nói về sự thay đổi của thời gian và của con người tuy có vẻ khách quan nhưng có gì đó phảng phất buồn.
- Hai câu sau thiên về tự sự và biểu cảm khi có sự xuất hiện của những đứa trẻ nhỏ. Đứa trẻ đó ngơ ngác không biết là ai, chúng coi ông như là một người khách lạ. Xa quê hương của mình và giờ trở về không ai nhận ra mình, tác giả đã sử dụng giọng điệu có chút hóm hỉnh nhưng chứa đựng nỗi buồn trong lòng.
hồi hộp ak?