K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 5

câu 1:

“Việt Nam quê hương ta” là một bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi viết về quê hương, đất nước. Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả đã khắc họa phong cảnh rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình. Những hình ảnh tiêu biểu cho đất nước, con người Việt Nam được tác giả khắc họa như: “biển lúa, cánh cò, đỉnh Trường Sơn, áo nâu nhuộm bùn, đất nghèo, hoa thơm quả ngọt”. Cùng với đó là đức tính tốt đẹp của người Việt Nam - sự vất vả, cần cù nhưng vẫn giữ phẩm chất tốt đẹp. Tiếp đến, nhà thơ đã cho người đọc thấy được truyền thống đánh giặc bảo vệ đất nước. Từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với những kẻ thù xâm lược. Nhưng trong hoàn cảnh đó, nhân dân ta vẫn kiên cường, đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù. Nhiều anh hùng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân bảo vệ đất nước. Sau đó, nhà thơ tiếp tục cho người đọc sẽ hiểu hơn về phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là tinh thần kiên cường, bất khuất (chịu nhiều đau thương, chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên, đạp quân thù xuống đất đen) và chịu thương chịu khó (súng gươm vứt bỏ lại hiền hơn xưa). Cùng với tình nghĩa thủy chung - “yêu ai yêu trọn tấm lòng thuỷ chung”. Và cả sự tài hoa, khéo léo của con người - “tay người như có phép tiên”. Nguyễn Đình Thi đã bộc lộ lòng tự hào, tình yêu sâu sắc dành cho con người, đất nước Việt Nam. Như vậy, bài thơ “Việt Nam quê hương ta” đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc.

câu 2:

Tinh thần dân tộc là một trong những giá trị cốt lõi, là ngọn lửa thiêng liêng hun đúc nên bản sắc và sức mạnh của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Đó là lòng yêu nước, ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết và khát vọng vươn lên không ngừng nghỉ của con người Việt Nam qua các thời kỳ.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh tinh thần dân tộc là nguồn động lực to lớn giúp nhân dân ta vượt qua bao thử thách. Từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu khởi nghĩa chống ngoại xâm, đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, mỗi giai đoạn đều ghi dấu sự hy sinh, lòng quả cảm và ý chí quật cường của dân tộc Việt. Họ sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân, thậm chí cả tính mạng vì sự độc lập, tự do của Tổ quốc. Tinh thần ấy không chỉ hiện hữu trong chiến tranh, mà còn lan tỏa mạnh mẽ trong thời bình, khi người dân Việt chung tay xây dựng đất nước, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, hay đưa tên tuổi Việt Nam vươn ra thế giới qua các thành tựu khoa học, thể thao, văn hóa...

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, tinh thần dân tộc không nên bị hiểu nhầm thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Yêu nước phải đi kèm với hành động đúng đắn, tôn trọng cộng đồng quốc tế và phát triển bền vững. Tinh thần dân tộc hôm nay cần được thể hiện qua ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao tri thức, ứng xử văn minh và cống hiến tích cực cho xã hội.

Tinh thần dân tộc chính là sợi dây vô hình kết nối quá khứ - hiện tại - tương lai của đất nước. Là người Việt Nam, mỗi chúng ta cần nhận thức rõ vai trò của mình trong việc giữ gìn và phát huy tinh thần ấy, để Tổ quốc luôn vững mạnh và phát triển trường tồn.

16 tháng 9

Câu 1. Đoạn văn (khoảng 200 chữ) ghi lại cảm nghĩ sau khi đọc bài thơ “Mẹ”

Bài thơ Mẹ của Bằng Việt khắc họa hình ảnh người mẹ hiền hậu, tận tụy và giàu tình yêu thương dành cho con. Khi đọc bài thơ, em cảm nhận được nỗi nhớ da diết của người con với mẹ và quê hương, nhất là trong bối cảnh chiến tranh, gian khó. Từng câu chữ đều gợi lên hình ảnh mẹ lặng lẽ chăm sóc con, từ những món ăn bình dị như canh tôm nấu khế, khoai nướng, ngô bung, đến những hành động âm thầm nhưng đầy tình thương. Cách tác giả miêu tả chi tiết, giàu hình ảnh đã làm nổi bật sự hy sinh thầm lặng của mẹ, đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng của con đối với mẹ. Em thấy xúc động khi hình dung mẹ già chịu đựng gian khó nhưng vẫn quan tâm từng hơi thở, từng bước đi của con, và nỗi nhớ mẹ khiến con cảm thấy đất nước trở nên gần gũi, ấm áp. Bài thơ khiến em hiểu hơn giá trị của tình mẫu tử thiêng liêng, đồng thời nhắc nhở em trân trọng, biết ơn những công lao và tình thương vô bờ của cha mẹ.


Câu 2. Bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) về ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống

Lòng biết ơn là một trong những giá trị đạo đức cao đẹp, giúp con người sống nhân hậu, chân thành và có trách nhiệm với bản thân và người khác. Bài thơ Mẹ của Bằng Việt đã gợi lên lòng biết ơn của người con đối với mẹ. Nhân vật trữ tình xúc động trước những hy sinh, lo toan và tình yêu thương vô bờ bến của mẹ, từ việc chăm sóc, nấu những món ăn bình dị đến sự dạy dỗ, quan tâm từng bước đi của con. Từ câu chuyện này, chúng ta nhận ra rằng biết ơn không chỉ là nhận thức về công lao, tình cảm mà còn là hành động, thái độ trân trọng và đối xử tốt với những người đã yêu thương, giúp đỡ mình.

Lòng biết ơn giúp con người trở nên cao thượng, gắn kết các mối quan hệ và tạo nên một xã hội nhân ái. Người biết ơn sẽ không bao giờ xem nhẹ tình thương, công sức của cha mẹ, thầy cô hay bạn bè, đồng thời biết chia sẻ, giúp đỡ người khác. Ngược lại, thiếu lòng biết ơn dẫn đến ích kỷ, thờ ơ và làm phai nhạt những giá trị tốt đẹp xung quanh. Trong cuộc sống hằng ngày, lòng biết ơn có thể thể hiện qua những lời nói, hành động nhỏ nhưng chân thành, như thăm hỏi cha mẹ, quan tâm bạn bè, trân trọng sự giúp đỡ của người khác.

Như vậy, lòng biết ơn là nền tảng của nhân cách, giúp con người sống có trách nhiệm và giàu tình cảm. Bài thơ Mẹ nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn biết ơn và trân trọng những người thân yêu, những công lao thầm lặng đã làm nên hạnh phúc và cuộc sống của chúng ta.

18 tháng 9

đây là bài văn của mình:

Bài thơ Bầm ơi! của Tố Hữu là một khúc tâm tình đầy xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ. Hình ảnh người mẹ – “bầm” – hiện lên với tất cả sự tần tảo, lo lắng và yêu thương dành cho người con đang đi kháng chiến. Tình cảm ấy không chỉ thể hiện qua những câu hỏi đầy thương nhớ mà còn qua nỗi đau thầm lặng khi mẹ chịu đựng sự thiếu vắng con. Người con, dù đang ở nơi chiến trường, vẫn luôn hướng về mẹ với lòng biết ơn và xót xa. Những câu thơ như “Con đi trăm núi nghìn sông / Không bằng một chút tấm lòng của bầm” đã khắc họa sâu sắc sự hy sinh thầm lặng của mẹ, đồng thời thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết của người con. Qua đó, bài thơ không chỉ ca ngợi tình mẫu tử mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của người mẹ Việt Nam trong thời chiến – giàu đức hy sinh, kiên cường và đầy yêu thương. Tình cảm ấy khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào và trân trọng hơn những người mẹ trong cuộc đời mình.

16 tháng 9

Câu 1:

Nhân vật người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm là hình ảnh tiêu biểu cho nỗi đau của người vợ có chồng ra trận trong thời loạn lạc. Qua từng câu thơ, nỗi cô đơn, buồn tủi và khao khát hạnh phúc lứa đôi hiện lên một cách sâu sắc. Chồng ra đi, người chinh phụ sống trong cảnh “phòng không”, lẻ loi, nhớ nhung da diết. Nàng không chỉ đau vì phải xa cách người thương mà còn vì nỗi lo lắng, thấp thỏm cho sự an nguy của chồng nơi chiến trường. Những hành động như “gảy đàn”, “thắp đèn”, “trông cửa” chỉ càng làm nổi bật nỗi nhớ và sự trống trải trong tâm hồn. Tâm trạng của nàng là sự giằng xé giữa bổn phận với đất nước và khát vọng hạnh phúc cá nhân. Thông qua hình ảnh người chinh phụ, tác giả không chỉ bày tỏ nỗi thương cảm với số phận người phụ nữ trong chiến tranh mà còn ngầm lên án những cuộc chiến phi nghĩa, đẩy con người vào cảnh chia lìa, đau khổ. Nhân vật người chinh phụ vì vậy trở thành biểu tượng cho nỗi đau thầm lặng và phẩm chất thủy chung của người phụ nữ xưa.

Câu 2:

Khi đọc Chinh phụ ngâm, ta không chỉ cảm nhận được nỗi cô đơn của người vợ có chồng ra trận mà còn thấy rõ những mất mát, đau thương mà chiến tranh để lại cho con người. Hình ảnh người chinh phụ ngày ngày ngóng trông chồng giữa chốn khuê phòng lạnh lẽo là minh chứng rõ nét cho bi kịch chia lìa mà chiến tranh gây nên. Không chỉ có sự xa cách, chiến tranh còn gieo rắc cái chết, tàn phá hạnh phúc và để lại những vết thương không thể xóa nhòa trong lòng người.

Chiến tranh là kẻ thù lớn nhất của hòa bình, là nguyên nhân sâu xa của đau thương và chia cắt. Bao nhiêu người con đã ngã xuống nơi chiến trường, bao nhiêu mái ấm tan vỡ, bao nhiêu bà mẹ, người vợ, đứa trẻ sống trong nước mắt và hy vọng mỏi mòn. Không chỉ trong văn chương mà cả trong lịch sử dân tộc và thế giới, chiến tranh luôn để lại những hậu quả nặng nề về thể xác lẫn tinh thần. Nó không chỉ tàn phá làng mạc, thành phố mà còn cướp đi những giá trị nhân văn cao đẹp của con người: tình yêu, lòng nhân ái, hạnh phúc và sự bình yên.

Ngày hôm nay, chúng ta may mắn được sống trong hòa bình – thành quả của biết bao máu xương, hy sinh của cha ông. Vì vậy, thế hệ trẻ càng cần phải ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống hòa bình và trách nhiệm giữ gìn nó. Trân trọng hòa bình không chỉ là biết ơn quá khứ mà còn là hành động thiết thực trong hiện tại: sống nhân ái, học tập, lao động, cống hiến để xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ và không còn chỗ cho bạo lực hay hận thù. Mỗi người trẻ cần trở thành một "chiến sĩ" gìn giữ hòa bình – bằng tri thức, bằng tình yêu thương, bằng sự tỉnh táo trước cái xấu, cái ác, và bằng tiếng nói phản đối mọi hành vi chia rẽ, kỳ thị hay kích động chiến tranh.

Chiến tranh là bài học đau đớn của nhân loại, còn hòa bình là khát vọng ngàn đời của con người. Bởi thế, chỉ khi biết trân trọng sự yên bình đang có, thế hệ trẻ hôm nay mới thực sự xứng đáng với sự hy sinh của cha ông và góp phần gìn giữ một tương lai không còn bóng dáng chiến tranh.

16 tháng 9

Câu 1:

Trong đoạn trích Chinh phụ ngâm, hình ảnh người chinh phụ hiện lên đầy đau khổ, xót xa. Người chinh phụ sống trong cảnh chia xa, nhiều năm mong ngóng tin chồng nhưng tin tức vẫn bặt vô âm tín: “Trải mấy xuân tin đi tin lại, / Tới xuân này tin hãy vắng không”. Nỗi mong chờ ấy khiến nàng luôn dõi theo từng cánh nhạn, từng áng mây, thậm chí gieo bói cầu tin, viết thư rồi lại mở ra trong tuyệt vọng. Nỗi nhớ thương khiến nàng trở nên gầy guộc, xiêm áo lỏng lẻo, bước chân nặng nề dạo hiên vắng, ngồi sau rèm buồn bã. Cô đơn đến mức, người chinh phụ phải mượn cả ngọn đèn để trò chuyện: “Đèn có biết dường bằng chẳng biết / Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”. Qua hình ảnh này, ta thấy rõ thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi chồng ra trận: họ chỉ biết chờ đợi, hy sinh trong cô quạnh và đau thương. Đồng thời, tác phẩm cũng gợi cho người đọc niềm cảm thương sâu sắc đối với những phận người bị chiến tranh làm cho chia lìa, bất hạnh.

17 tháng 9

câu 1

Người phụ nữ Việt Nam luôn là nguồn cảm hứng dạt dào và xuyên suốt của các nhà thơ, đặc biệt là trong thơ Tố Hữu. Là một nhà thơ cách mạng nên khi viết về người phụ nữ, Tố Hữu vừa tuyên truyền, cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân, vừa tái hiện những năm tháng kháng chiến gian lao mà hào hùng, vẻ vang của dân tộc và ca ngợi những phẩm chất cao đẹp cũng như khắc ghi công lao to lớn của người phụ nữ đối với cách mạng, với đất nước. Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Tố Hữu thấm đượm vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao quý như nhân hậu, đảm đang, giàu lòng yêu nước nhưng đồng thời tâm hồn họ vẫn được thổi vào luồng gió của thời đại, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng và lý tưởng cộng sản. Người mẹ trong bài thơ “Bà má Hậu Giang” được xây dựng là hình mẫu điển hình cho người phụ nữ yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp với sự hội tụ của nhiều phẩm chất đáng quý: kiên cường, dũng cảm, hi sinh âm thầm lặng lẽ vì quê hương, đất nước,…Hình ảnh “Bà má Hậu Giang” – người mẹ với lòng kiên trung đã nuôi giấu cán bộ, bất chấp hiểm nguy, là hình ảnh nói lên ý chí, niềm tin của đồng bào Nam Bộ sau Khởi nghĩa Nam Kỳ. Lời nói đanh thép của má “Má có chết, một mình má chết”/ “Các con ơi! Má quyết không khai nào!” khiến người đọc nhận ra dù bị tra tấn dã man, má sẵn sàng “ chết một mình” để “ các con trừ hết quân Tây!”, yên tâm chiến đấu. Chi tiết tiếng hét của má “ Tụi bay đồ chó!…” thể hiện rõ nét lòng căm thù giặc sâu sắc, sẵn sàng đối mặt với kẻ thù, không sợ hi sinh, một lòng một dạ trung thành với cách mạng. Sự phẫn uất tột cùng của má trước kẻ thù độc ác, tàn bạo “chúng cướp nước, cắt cổ dân” càng lấp đầy lòng tin của má về những người chiến sĩ cộng sản. Trong những năm tháng khắc khổ gian lao, má vẫn tin tưởng vào các con – những chiến sĩ cộng sản kiên cường “tao già, không cầm được dao / giết bay đã có các con tao”…Hình ảnh bà mẹ một mình bám trụ với mảnh đất chết, “lom khom đi lượm củi khô” nấu cơm cho du kích… đã khắc sâu trong tâm trí của người đọc về sự kiên cường, bản lĩnh đầy nghị lực của má, phẩm chất cao quí. Sự hi sinh thầm lặng của má đã góp phần quan trọng vào thắng lợi trong công cuộc kháng chiến cứu nước gian lao. Sử dụng thể thơ song thất lục bát, có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và bình luận làm cho giọng điệu vừa cứng cỏi và pha lẫn xót thương….Cách xưng hô “má” thể hiện thái độ kính trọng của nhà thơ nhưng cũng rất thân thiết, gắn bó như ruột thịt. Khắc họa thành công vẻ đẹp của bà má Hậu Giang – một hình ảnh tiêu biểu cho bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhà thơ đã thể hiện thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, nể phục, tự hào và biết ơn sâu sắc.



17 tháng 9

Câu 1:

Trong văn bản “Bà má Hậu Giang”, nhân vật bà má là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Nam Bộ giàu lòng yêu nước, dũng cảm và đầy tình thương. Dù là một người nông dân bình dị, bà đã sẵn sàng nuôi giấu cán bộ, che chở cho cách mạng giữa muôn vàn hiểm nguy. Bà không chỉ lo cơm nước mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những người lính, như một người mẹ thực sự. Tình cảm của bà xuất phát từ trái tim chân thành, đầy bao dung và trách nhiệm với quê hương, đất nước. Qua hình ảnh bà má, người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của lòng yêu nước, đức hy sinh âm thầm của những bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến. Nhân vật bà má Hậu Giang đã để lại ấn tượng sâu đậm, thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân và cách mạng, đồng thời truyền cảm hứng cho các thế hệ sau về lòng yêu nước và nghĩa tình đồng bào.


Câu 2:

Từ câu chuyện về bà má Hậu Giang, thế hệ trẻ hôm nay cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước. Nếu như các thế hệ đi trước đã không tiếc máu xương để bảo vệ Tổ quốc, thì thế hệ trẻ ngày nay phải sống có lý tưởng, biết cống hiến bằng chính khả năng và hành động của mình.

Trách nhiệm ấy thể hiện trước hết ở việc học tập tốt, rèn luyện đạo đức, nâng cao hiểu biết để trở thành công dân có ích. Người trẻ cần chủ động tiếp thu tri thức mới, phát huy tinh thần sáng tạo, làm chủ công nghệ và khoa học để góp phần đưa đất nước phát triển. Đồng thời, mỗi người cũng cần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tránh xa lối sống lệch lạc, thiếu trách nhiệm với cộng đồng.

Hành động cụ thể có thể bắt đầu từ việc học tập nghiêm túc, tham gia hoạt động xã hội, tích cực bảo vệ môi trường, sống tử tế, nhân ái và có trách nhiệm. Chính những việc làm nhỏ mỗi ngày sẽ góp phần tạo nên sự thay đổi lớn, giúp đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Thế hệ trẻ cần tiếp bước cha ông bằng chính tinh thần nhiệt huyết, trung thực và khát vọng cống hiến.

16 tháng 9

Câu 1:

Trong Tống Trân - Cúc Hoa, nhân vật Cúc Hoa gây ấn tượng mạnh bởi tấm lòng thủy chung và sự hi sinh dành cho chồng. Vốn là con nhà giàu, nhưng nàng sẵn sàng lấy một chàng trai nghèo khó chỉ vì tình nghĩa. Khi về làm dâu, Cúc Hoa vừa chăm lo mẹ chồng, vừa gánh vác việc nhà, lại còn bán cả vàng để rước thầy dạy học cho chồng. Nàng không chỉ đảm đang mà còn có cái nhìn xa: biết rằng chỉ có con đường học hành mới giúp chồng thoát khỏi nghèo khổ, mới lo được cho mẹ và cho gia đình. Chính sự hi sinh lặng lẽ ấy đã tiếp thêm sức mạnh để Tống Trân đỗ đạt và thành công. Ở Cúc Hoa, ta thấy hiện lên hình ảnh quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam: giàu tình yêu thương, nhẫn nại, và hết lòng vì hạnh phúc gia đình. Nhân vật này khiến ta cảm phục bởi sự thủy chung và ý chí kiên cường, dẫu khó khăn vẫn không hề than vãn.

16 tháng 9

Câu 2:

Ai cũng muốn có một tương lai tốt đẹp, nhưng con đường đi tới thành công chưa bao giờ bằng phẳng. Đọc Tống Trân – Cúc Hoa, ta thấy rõ điều đó: một chàng trai nghèo cùng người vợ hiền đã trải qua vô vàn vất vả, thế nhưng họ không nản chí mà vẫn một lòng hướng về mục tiêu. Nhờ vậy, Tống Trân mới có thể trở thành Trạng nguyên, còn Cúc Hoa được tôn vinh bởi sự thủy chung, hi sinh.

Trong thực tế, khó khăn giống như những “bài kiểm tra” của cuộc đời. Chúng khiến ta mệt mỏi, có lúc muốn bỏ cuộc, nhưng nếu vượt qua được thì bản thân lại trưởng thành, mạnh mẽ hơn rất nhiều. Người dễ dàng bỏ cuộc sẽ mãi dừng chân ở vạch xuất phát, còn người kiên trì lại có cơ hội gặt hái thành công. Câu chuyện của Tống Trân và Cúc Hoa cho ta bài học: muốn đạt được ước mơ thì phải giữ vững niềm tin, không lùi bước trước thử thách.

Để rèn luyện nghị lực, mỗi người có thể bắt đầu từ những việc nhỏ như: đặt mục tiêu học tập rồi kiên trì theo đuổi, tập thói quen không bỏ dở giữa chừng, giữ cho mình một tinh thần lạc quan và tìm sự động viên từ gia đình, bạn bè. Ngoài ra, cũng cần rèn luyện sức khỏe, vì một tinh thần mạnh mẽ luôn cần một thể chất khỏe khoắn.

Nói ngắn gọn, không nản lòng trước khó khăn chính là chìa khóa để chúng ta mở cánh cửa thành công. Người trẻ hôm nay càng cần học cách kiên cường, để mỗi thử thách không làm ta gục ngã mà trở thành bước đệm giúp ta tiến xa hơn.

11 tháng 4 2020

* Đoàn thuyền đánh cá được xây dựng trên phông nền của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

  Sóng đã cài then đêm sập cửa”

- Hình ảnh so sánh độc đáo trong câu 1:

  + Điểm nhìn nghệ thuật: điểm nhìn di động, nhìn từ con thuyền đang ra khơi.

  + Thời gian: hoàng hôn

=> Gợi quang cảnh hùng vĩ của bầu trời lúc hoàng hôn

=> Gợi được bước đi của thời gian. Thời gian không chết lặng mà có sự vận động.

-  Biện pháp tu từ nhân hóa:

  + Được sáng tạo từ chi tiết thực: những con sóng cài ngang như chiếc then cửa của vũ trụ. Bóng đêm “sập cửa”  gợi khoảnh khắc ánh ngày vụt tắt và màn đêm bất ngờ buông xuống bao trùm tất cả.

  + Gợi không gian vũ trụ rộng lớn, mênh mông, kì vĩ mà vẫn gần gũi, ấm áp như ngôi nhà của con người.

* Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

« Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi ».

- “Lại”:

  + Chỉ một sự kiện lặp đi lặp lại.

  + Chỉ sự trái chiều giữa hoạt động của vũ trụ và hoạt động của con người.

-> Gợi một nhịp sống thanh bình của quê hương, đất nước.

- “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”:

  + Kết hợp hai hình ảnh cụ thể với trừu tượng: “câu hát” – “gió khơi” -> cụ thể hóa sức mạnh đưa con thuyền ra khơi.

  + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” -> tái hiện vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui lao động của người dân chài.

-> Đoàn thuyền ra khơi trong niềm vui, tình yêu lao động và mang trong đó mang theo khát vọng về những khoang cá đầy ắp, bội thu.

11 tháng 4 2020

Khổ thơ biểu hiện sự tần tảo và đức hi sinh của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi sôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

- Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, trải qua nhiều mưa nắng. Hình ảnh bà cũng là biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam bất khuất, giàu đức hi sinh, giàu tình yêu thương.

- Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ hồi đắp cao dần.

+ Từ “nhóm” trong câu “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” là động từ chỉ hành động bằng tay, dùng lửa để làm cháy lên bếp lửa. Bếp lửa là hình ảnh có thật, được cảm nhận bằng mắt thường. Bếp lửa được đốt lên, thắp lên để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt, để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa bình dị của mọi gian bếp làng quê Việt Nam.

+ Từ “nhóm” trong câu: “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gaoj mới xẻ chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” là nhóm được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Bà đã nhóm lên, khơi dậy niềm yêu thương, những kí ức đẹp trong lòng người cháu. Như thế, nhớ về bà, về những kí ức đẹp cũng là nguồn sống cho người cháu từ nhỏ đến lớn.

b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa: Bếp lửa kì lạ và thiêng liêng.

- Hình ảnh bếp lửa được người cháu khái quát, nâng lên thành biểu tượng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”.

- Câu thơ cảm thán với cấu trúc câu đảo ngược đã thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai. Cháu hiểu được linh hồn của dân tộc đã và đang cùng nhau trải qua những gian lao vất vả để tiến lên phía trước.

28 tháng 8 2019

1.Có thể nhận thấy được rằng việc chúng ta bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc, bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO). Hay như chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói “Trẻ em như búp trên cành” cho nên việc chúng ta yêu thương các em trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải của riêng ai.

    Nhận thấy được rằng chính tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Đồng thời nó cũng lại thật phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực… của thế hệ trẻ. Chúng ta như không thể nào có thể quên được ngay trong "Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Thông qua lời căn dặn này ta đồng thời cũng có thể nhận thấy được trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trường quốc tế.

   Quả không sai khi người ta nói chỉ cần xem công tác kiểm tra các vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em của một đất nước thôi thì có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của một xã hội. Ta như nhận thấy được ở đất nước Nhật. Nước Nhật là một quốc gia không có nhiều tài nguyên thiên nhiên trong khi đó lại phải đối mặt với rất nhiều thiên tai như động đất và núi lửa nhưng đất nước vẫn vươn lên trở thành một trong những siêu cường lớn nhất hiện nay. Đó chính là việc nước Nhật luôn luôn coi trọng và phát triển con người. Người Nhật luôn dạy con cái – những thế hệ mầm non tương lai của đất nước họ rất nhiều bài học. Họ thực sự quan tâm đến thế hệ con trẻ và luôn chăm lo đến đời sống của các em. Có như vậy thì đất nước họ mới có thể có được vị thế vững chắc như ngày hôm nay.

    Ta nhận thấy được chính nhờ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, hay đó cũng còn là chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội đối với trẻ em hiện nay được quan tâm trên nhiều khía cạnh. Trong những năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em dường như cũng lại ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em như các nhóm quyền sống còn, và có cả các nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền tham gia. Có thể khẳng định được rằng cũng chính công ước này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em. Đồng thời nó cũng chính là những điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Sự kiện tiếp theo có thể nhận thấy được vào năm 1990 Tuyên bố thế giới… đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Dễ dàng nhận thấy được cũng chính tuyên bố này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và tương lai của trẻ em.

    Hiện nay ta như nhận thấy được cũng chính vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Việt Nam vinh dự và cũng thật tự hào là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em. Và ta như thấy được cũng chỉ sau Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, lúc này đây thì Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định Chương trình hành động vì sự sống còn. Đồng thời như cũng thấy được cũng chính quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trên cơ sở những luật pháp như được ban bố kia thì các ngành, các cấp phải có những hoạt động thật cụ thể để nhằm đảm bảo các quyền lợi của trẻ em như các chính sách hỗ trợ kinh tế đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trường, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trường học, thiết bị dạy học… để nâng cao chất lượng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp xây đựng trường lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì người nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, khuyến khích mở các lớp học tình thương, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ côi, tàn tật, lang thang không nơi nương tựa…

    Trẻ em cũng cần được yêu thương và chăm sóc cho nên những hành động có hại hay mang đến những tổn thương cho các em cần được lên án và tẩy chay.

    Hiện nay thì các tình trạng bạo hành trẻ em của nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cũng đang có xu thế gia tăng và theo nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Bên cạnh những việc làm có ý nghĩa như hiện tượng cá nhân tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang thang thì vẫn còn không ít những quyền của trẻ em hiện nay đang bị xâm hại và không được coi trọng. Tất cả những vấn nạn gây ra nhiều tổn thương về tinh thần cũng như thể xác của các em cũng cần được đưa ra để có những biện pháp xử lý cụ thể nhất, nhằm có thể răn đe cho người sau. Trẻ em cũng nên được giáo dục hiểu biết về luật pháp cũng như những quyền của chính mình. Các em luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của người thân và toàn xã hội.

    Trẻ em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, nên hãy biết yêu quý và bảo vệ các em để tránh những điều không tốt làm tổn hại đến nhân phẩm cũng như thể xác.

~Châu's ngốc

28 tháng 8 2019

Gia đình là tổ ấm, là cái nôi nuôi dưỡng con trẻ khôn lớn thành người. Thế nhưng, hiện nay có một thực trạng đáng buồn xảy ra chính là nạn bạo hành trẻ em ở ngay chính trong ngôi nhà của mình. Nếu chúng ta không có những biện pháp can thiệp thì không biết những đứa trẻ tội nghiệp kia còn phải chịu những tổn thương gì và tương lai chúng sẽ ra sao.

   Bạo hành là hành động xâm hại đến thể chất cũng như tinh thần của con người. Bạo hành trẻ em trong gia đình chính là tình trạng những người cha, người mẹ hoặc những người thân trong gia đình sử dụng những hành động xâm phạm đến thân thể hoặc tinh thần của các em. Đó có thể là cha mẹ ruột đánh đập con cái. Hay cũng có thể là cảnh mẹ kế, cha dượng ghẻ lạnh, hắt hủi con riêng của vợ hoặc chồng. Hay đơn giản, đó là những lời chê bai, chửi bới, xúc phạm đến tâm hồn, tinh thần con trẻ…

   Ngày nay, tình trạng bạo hành trẻ em ngày một có chiều hướng gia tăng. Mỗi ngày, những thông tin về bạo hành trẻ em trong gia đình xuất hiện nhan nhản trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Mới đây nhất, vụ việc bé G.K (được báo chí giấu tên) 10 tuổi, bị chính cha ruột là ông Trần Hoài Nam (Phường Nghĩa Đô – Hà Nội) cùng với mẹ kế đánh đập dã man tới mức phải nhập viện vì gãy xương xườn và rạn sọ não. Không chịu nổi bạo hành trong thời gian dài, bé đã phải bỏ trốn tới cầu cứu ông nội mới thoát thân. Đó chỉ là một trong rất nhiều cảnh thương tâm mà chúng ta phải chứng kiến mỗi ngày.

   Bạo hành trẻ em giống như một tội ác khó dung thứ, khi mà nạn nhân chỉ là những đứa trẻ non nớt, vô tội. Bạo hành không chỉ ảnh hưởng tới thân thể mà còn ảnh hưởng tới tâm lý của các em rất nhiều. Những thân thể non nớt với những vết thương rướm máu chằng chịt, những vết bầm tím nối dài khắp cơ thể, những vết sẹo mãi chẳng lành. Như bé G.K trong ví dụ trên, việc gãy xương sườn và sạn sọ não không chỉ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe và tính mạng của bé thời điểm đó mà còn để lại những di chứng xấu về sau này. Nếu không được chăm sóc, thể chất bé sẽ không thể phát triển bình thường như bao bạn khác được nữa. Nếu như nỗi đau thể xác ám ảnh, đau đớn ảnh hưởng một thì những tổn thương, những ám ảnh tâm lý ảnh hưởng tới các bé gấp mười lần. Thay vì việc vui cười, chạy nhảy như bao bạn đồng trang lứa khác thì các bé lại sống trong cảnh hoang mang, sợ hãi thường trực với những trận đòn roi không ngớt, những câu mắng chửi ác độc. Dần dần, nó tạo tâm lý trầm cảm, sợ hãi và tự ti cho các bé. Sự phát triển của trẻ ngày một lệch lạc hơn khi chúng không được định hướng đúng đắn. Và rất có thể, sau này khi lớn lên, chúng cũng sẽ lại trở thành những kẻ vũ phu, những kẻ bạo hành người khác… Bản thân những người bạo hành cũng sẽ bị pháp luật xử lý, bị xã hội lên án hay chính lương tâm họ cũng sẽ bị căn dứt trước những hành động nhẫn tâm của mình.

   Để dẫn đến những hậu quả thương tâm ấy, chúng ta có thể kể tới rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Đó có thể là do hậu quả của việc cha, mẹ say sỉn, mất kiểm soát hành vi của mình. Hay do hoàn cảnh gia đình khó khăn, áp lực công việc đè nặng, trình độ dân trí lại thấp khiến con người bị quá tải, mất khả năng kiểm soát hành động. Bên cạnh đó, còn là sự ích kỉ, nhỏ nhen của một bộ phận những người làm mẹ kế, cha dượng đẩy những đứa trẻ tội nghiệp vào những hoàn cảnh bi thương….

   Trước sự việc đó, mỗi chúng ta cần đưa ra những biện pháp để khắc phục và hạn chế tối đa tình trạng bạo hành trẻ em trong gia đình xảy ra. Khi phát hiện ra những trường hợp bạo hành trẻ em, cần can thiệp và báo ngay đến cơ quan chức năng để xử lý kịp thời. Mỗi người làm cha, làm mẹ hay những người thân của bé cũng nên bình tĩnh cũng như học cách yêu thương con cái mình tốt hơn. Chỉ nên sinh 1 đến 2 con để đảm bảo cho trẻ những điều kiện chăm sóc tốt nhất. Hãy kiên nhẫn với trẻ nhỏ cũng như suy nghĩ trước khi đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến con cái như ly hôn hay tảo hôn….

   “Trẻ em như búp trên cành”, trẻ em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước. Hãy chăm sóc và bảo vệ trẻ nhỏ vì chúng đáng được nhận mọi sự yêu thương. Đừng để bạo hành trẻ em trong gia đình làm mất đi tương lai của con nhỏ.

!Châu's ngốc