Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Truyện ngắn “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh in trong tập Quê mẹ, xuất bản năm 1941. Đây là dòng cảm xúc của nhân vật “tôi” - cũng chính là tác giả, về những cảm xúc đầu đời trong buổi tựu trường ba mươi năm về trước. Dòng cảm xúc được thể hiện theo trình tự thời gian. Tâm trạng nhân vật phát triển song song cùng với các sự kiện đáng nhớ trong ngày đầu tiên đi học đó. Từ lúc được mẹ âu yếm dắt tay dẫn đi trên con đường tới trường, đến cảnh cậu say mê nhìn ngắm ngôi trường; cảnh hồi hộp nghe ông đốc gọi tên, lo lắng khi phải rời tay mẹ để cùng các bạn vào lớp nhận chỗ của mình và vào buổi học đầu tiên. Sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp tự sự, miêu tả và cảm xúc chân thành đã tạo nên tính trữ tình đậm đà của thiên tự truyện. Để rồi sau mấy chục năm, tác giả - là cậu bé ngày xưa vẫn nhớ như in: Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.
Xem thêm tại: https://doctailieu.com/doan-van-cam-nhan-ve-dong-cam-xuc-cua-nhan-vat-toi-h1993
Câu chuyện được tái hiện qua sự hồi tưởng của tác giả đồng thời cũng là nhân vật tôi. Bằng biện pháp nghệ thuật kể chuyện kết hợp miêu tả , truyện đã diễn tả dòng cảm xúc của nhân vật, tức là cái tôi trữ tình, rất trong trẻo, sinh động về ngày đầu tiên đi học.
Từ thực tại của đất trời cuối thu (thời gian mở đầu năm học), tác giả nhớ về dĩ vãng, về “những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường” đầu tiên trong đời mình. Dòng cảm xúc về kỉ niệm ấy được nhân vật “tôi” nhớ lại theo trình tự thời gian. Đầu tiên là sự háo hức, cảm thấy lòng mình thay đổi, như đã lớn lên, trang trọng và đứng đắn hơn lúc trên đường theo mẹ đến trường; là nỗi e sợ, phải đứng nép vào mẹ khi đứng dưới sân trường; thật sự lúng túng, xúc động khi nghe tiếng trống trường vang lên; ngơ ngác khi nghe gọi đến tên mình và cảm thấy mọi thứ như vừa quen vừa lạ khi ngồi trong lớp học. Tác giả tả cảnh mọi người vào trong lớp, vừa có gì lạ lẫm mà cũng tràn đầy háo hức, vừa lo lắng nhưng cũng rất thân quen để cùng khám phá một không gian mới, nơi có bàn ghế, bạn bè, thầy cô. Tác giả kết thúc bằng sự miêu tả một hình ảnh rất đẹp: “Một con chim non liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”.
Những kỉ niệm về ngày đầu tiên đến trường, chắc hẳn sẽ là những kỉ niệm rất đẹp trong kí ức cuộc đời của mỗi người về thuở ban đầu rụt rè và nhút nhát. Chính mái trường và thầy cô ngày xưa đó đã chắp cánh và cho ta thêm sức mạnh để bay tới những phương trời xa xôi ngày hôm nay.

Tham khảo:
Được ngồi trong lòng mẹ Hồng cảm thấy hạnh phúc tột cùng, sung sướng tận hưởng cái cảm giác đã mất đi từ lâu mà bây giờ mới tìm lại được. (câu bị động) Cậu đã phải chịu biết bao tủi cực, cay đắng, mong chờ mỏi mòn biết bao ngày tháng để rồi bây giờ được ngồi trong lòng của người mẹ kính yêu. Nhà văn đã đưa vào trong hồi kí của mình một lời phê bình rất tự nhiên: Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu (từ tượng hình) vô cùng. Cái lời bình nặng trĩu tình cảm ấy của tác giả như rót thêm mật ngọt vào tâm hồn của người đọc để người đọc càng cảm thấy cái tình mẫu tử thật thiêng liêng, sâu nặng.

Có bao giờ ta tự hỏi điều gì làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn học trước dòng chảy miên viễn của thời gian? Phải chăng chính nhờ vào sự độc đáo của các hình thức nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã sang tạo ra? Hay nhờ vào ý nghĩa tôn vinh con người mà tác phẩm đó đem đến? Có lẽ, sức sống ấy có được là vì một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng “ tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Một tác phẩm văn học chân chính luôn luôn chứa đựng trong nó những giá trị cơ bản như: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo….được biểu hiện thông qua sự phản ánh, phát hiện, khám phá cuộc sống và con người của nhà văn. Bằng cách này, hay cách khác, ngòi bút của những người nghệ sĩ chân chính luôn hướng về con người với những phát hiện rất riêng về vẻ đẹp nhân phẩm của họ. Và suy cho cùng, đó chính là sự “tôn vinh con người” một cách rất chân thực và trân trọng của nhà văn. Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là cuộc đời, nghệ thuật còn là nghệ thuật nữa. Vì vậy một tác phẩm văn học chỉ thực sự hay, được bạn đọc đón nhận và có sức sống trong lòng bạn đọc khi nó biểu hiện giá trị nội dung thông qua “những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Hình thức ấy có được là nhờ vào biệt tài, cá tính sang tạo của người cầm bút. Và một tác phẩm văn học muốn được chú ý, trước hết cần có những giá trị nghệ thuật nổi bật. Bởi lẽ, văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, điều làm nên sự khác biệt của văn học so với các bộ môn khoa học khác chính là sự độc đáo của hình thức nghệ thuật. Sự độc đáo ấy gây chú ý đối với công chúng, để họ đón nhận tác phẩm ấy và từ đó mới khám phá ra những giá trị nội dung mà tác phẩm đó chứa đựng. Như vây, sức sống lâu bền mà một tác phẩm văn học có được chính là nhờ vào giá trị nội dung với ý nghĩa tôn vinh con người và giá trị nghệ thuật độc đáo mà nhà văn đã sáng tạo ra. Có thể thấy, hai phạm trù này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời, nếu thiếu một trong hai phạm trù đó thì sẽ không có được tác phẩm văn học đích thực. Có một nhà lí luận phê bình đã từng nói rằng: “Văn học là nhân học”. Đó là một nhận định cho thấy được vai trò của một tác phẩm văn học đối với con người. Văn học luôn hướng tới con người và giúp con người hướng tới vẻ đẹp của CHÂN – THIỆN – MĨ và ý nghĩa hướng thiện ấy được biểu hiện nhờ vào hình thức nghệ thuật độc đáo. Từ cổ chí kim, văn học thế giới đã cho thấy biết rõ điều đó. Những nhà văn lớn trên thế giới bao giờ cũng mang trong mình tình yêu thương nhân loại vô cùng, luôn nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn con người và cũng luôn có niềm tin vào khả năng vươn dậy của nhân phẩm con người. Khi đến với truyện ngắn “Số phận con người” của nhà văn Nga Sô-lô-khốp là khi ta đến với một áng văn phản ánh rất chân thực lịch sử oai hùng của nước Nga Xô Viết với những trang viết đậm chất hiện thực và tinh thần nhân đạo cao cả. Bằng tài năng và tâm huyết của mình Sô-lô-khốp đã khắc hoạ rất thành công hình tượng nhân vật Xô-cô-lốp thông qua nghệ thuật trần thuật độc đáo. Để từ đó tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp tính cách Nga, con người Nga. Đó là vẻ đẹp của con người cách mạng phải chịu bao đau thương, mất mát vì chiến tranh mà vẫn sống đầy nghị lực và nhân ái vô cùng. Con người đó không bị quật ngã bởi hoàn cảnh mà luôn biết đứng lên, sống một cuộc đời có ý nghĩa, có niềm tin vào tương lai. Trở lại với nền văn học Việt Nam chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều tác phẩm mang ý nghĩa “tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Và “Vợ nhặt” của Kim lân chính là một tác phẩm như vậy. Ai đã từng đến với “Vợ nhặt” chắc hẳn không thể quên được hình ảnh chết chóc tang thương trong một xóm ngụ cư nghèo khổ, không thể không bị ám ảnh trước hình ảnh một đám cưới nhỏ của Tràng lọt thỏm giữa một đám ma to của cả xóm ngụ cư. Nhưng cũng sẽ còn mãi trong tâm thức độc giả niềm xúc động trước tấm lòng của những con người bé mọn với nhau, trước khát vọng sống mãnh liệt của những số phận đang chấp chới giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Bởi Kim Lân viết về cái đói nhưng là để nói đến “tình người trong cái đói”. Và nhà văn đã chọn cho mình một tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật lên chủ đề của thiên truyện. So sánh với các tác phẩm cùng thời, ta có thể thấy được nét riêng của “Vợ nhặt”. Nam cao viết “Một bữa no” để độc giả thấy được sự khốn cùng đói khổ của nhân dân ta thông qua đó tố cáo xã hội đã đưa đẩy con người đến sự cùng cực của nghèo đói, tủi hổ. Còn Kim Lân cũng viết về cái đói nhưng ông lại tập trung làm nổi bật “tình người trong cái đói”. Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo từ nội dung đến nghệ thuật. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một lối kết cấu rất mơí lạ: hiện tại –quá khứ - hiện tại – tương lai. Và một tình huống truyện éo le độc đáo. Tình huống ấy xuất hiện ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”. Một nhan đề cho thấy được hiện thực tối tăm hoàn cảnh khốn khó đến mức số phận con người bị rẻ rúng như cây rơm ngọn cỏ. Bởi thế mới có sự kiện Tràng nhặt được vợ - nhặt vợ chứ không phải cưới vợ. Chuyện Tràng có vợ là một bất ngờ lớn với hết thảy mọi người, với bà cụ Tứ, với chính bản thân Tràng và với mọi độc giả. Có ai ngờ một anh nông dân cục mịch, có phần dở hơi lại nghèo khổ như thế lại có vợ một cách dễ dàng đến vậy! Nhưng éo le thay, Tràng lại lấy vợ vào lúc người ta không thể sống qua ngày vì đói khát. Tràng lấy vợ mà không có lễ ăn hỏi, đón dâu. Tất cả những gì đọng lại trong lòng độc giả về đám cưới đó chỉ là hình ảnh đôi bạn trẻ đi bên nhau lặng lẽ trong một buổi hoàng hôn đầy không khí chết chóc. Éo le bởi chỉ trong hoàn cảnh đó Tràng mới có được vợ. Éo le bởi đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu mà được bắt nguồn từ bản năng sống, khát vọng được sống thôi thúc con người ta phải hướng tới nhau, bấu víu vào nhau. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó cũng cho ta thấy được tình thương của con người với con người, thấy được tình yêu cuộc sống của những số phận nhỏ nhoi. “Đám cưới” ấy đã làm thay đổi những người trong gia đình Tràng và thay đổi chính Tràng. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy Tràng đã cảm nhận được tình yêu gia đình, sự gắn bó với các thành viên, niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao. Vậy đấy, trong nhiều điều mang tên Hạnh Phúc, có những điều thật bình dị nhưng đó là sự bình dị ấm áp. Không những thế, khi Tràng cho thị theo về, chấp nhận thị làm vợ tức là lúc anh đã biết dang rộng vòng tay yêu thương để đón lấy những kiếp đời khốn khổ hơn mình. Đó chẳng phải là một cách tôn vinh con người sao? Còn thị - một nhận vật cũng có vai trò rất quan trọng đối với thiên truyện, cũng được Kim Lân khắc hoạ bằng những hình thức nghệ thuật rất độc đáo. Thị xuất hiện trong tư thế đang “vân vê tà áo rách như tổ đỉa” với một “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt và hình dạng gầy xọp vì đói khát”. Tính cách, số phận con người ấy dần được hé lộ thông qua cái nhìn của Tràng, bà cụ Tứ, những sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Thị là một người phụ nữ vô danh, không tên tuổi, không quê hương bản quán, không gia đình…Hoàn cảnh éo le của cuộc sống đã đẩy thị đến bước đường cùng đói khát. Và vì tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản năng ham sống, thị cần tìm cho mình một chỗ dựa. Rồi thị đã bán rẻ cả chút sĩ diện của một con người để bấu víu vào Tràng, liều mình làm dâu nhà người chỉ với bốn bát bánh đúc rẻ mạt. Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người, với một người con gái thì nó càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thế nhưng, thật trớ trêu thay, đám cưới của thị được cử hành với hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa…Có lẽ đằng sau vẻ “chao chát, chỏng lỏn” kia là bao nỗi niềm xót xa tủi phận mà thị đã xót xa giấu kín. Rồi khi về nhà Tràng, thấy gia cảnh anh cũng nghèo khổ, túng quẫn, thị bỗng “nén một tiếng thở dài”. Trong căn nhà Tràng (hay nói đúng hơn, chỉ là một túp lều tranh) không khí bỗng trở nên trùng xuống. Giống như một chuyện đùa, nhưng họ đã thực sự bước vào một cuộc hôn nhân nghiêm túc. Bây giờ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hẳn sẽ có niềm vui nhen nhóm nhưng không biết có sự nuối tiếc, ân hận nào chăng? Và thật bất ngờ sáng hôm sau, thị đã thay đổi hoàn toàn. Không còn vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa thị trở về đúng nghĩa một người vợ hiền dâu thảo, thực hiện thiên chức của một người phụ nữ trong gia đình: thu vén việc nhà. Thị cũng chính là sợi dây gắn kết Tràng với bà cụ Tứ để tình cảm gia đình thêm gắn bó keo sơn. Là người nhóm lên trong hai mẹ con bà cụ Tứ niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn khi nhắc chuyện “phá kho thóc Nhật ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang”. Có thể nói thị chưa thể là hình tương tiêu biểu cho người phụ nữViệt Nam, nhưng trong con người thị có thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân đã bộc lộ rât rõ ngòi bút nhân đạo của mình khi khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp của tâm hồn con người, nâng niu, trân trọng nó,đặt niềm tin vào sự vươn dậy của ý thức nhân phẩm trong con người,Có lẽ,đó chính là một hình thức “tôn vinh con người” đơn giản,trung thực mà đáng trân trọng. Nếu như tính cách,số phận của thị được bộc lộ thông qua tình huống truyện độc đáo và sự quan sát, đánh giá của Tràng, bà cụ Tứ; thì vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ lại hiện lên nhờ vào nghệ thuât miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân.Bà cụ Tứ xuất hiện khi đang trở về nhà với dáng đi lầm lũi âm thầm. Cái dáng đi như hằn in cả cuộc đời lam lũ tủi cực của một số phận bé mọn khi sống dưới đêm đen nô lệ. Người mẹ nghèo khổ ấy không thể đoán được có chuyện gì đang diễn ra trong nhà mà con trai hôm nay lại khác lạ thế. Rồi khi lật đật bước vào nhà, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cuối cùng bà cũng hiểu ra mọi chuyện. Khoảnh khắc ngắn ngủi ấy như kéo dài ra bởi những dông tố đang chất chứa trong lòng bà cụ, bởi sự đợichờ trong lo lắng, hồi hộp của đôi trẻ mới nên duyên mà chưa có sự đồng ý của người mẹ. Và khi “bà lão cúi đầu nín lặng” thì chính là lúc “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự”. Cái “cúi đầu” xót thương cho cả cuộc đời đầy những đắng cay mặn mòi nước mắt của chính bà, xót xa cho số phận con trai và thương xót cho cả người con... ![]()
NV
Nguyễn Việt Dũng
CTVVIP
13 tháng 9 2023
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường......... Với hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng của tổ tiên ta từ thuở Âu Cơ, Lạc Long Quân cho đến thời đại Hồ Chí Minh hiện nay, chúng ta tự hào vì được làm con dân đất Việt, trời Nam. Mỗi khi lật từng trang sử của dân tộc chúng ta lại thấy cần có trách nhiệm hơn, bởi đó là nơi để soi rọi tâm hồn ta, kêu gọi ta làm gì đó có ích cho đất nước. Chính vì thế, việc học lịch sử là một phần không thể thiếu đối với học sinh, sinh viên ở bất cứ cấp học, bậc học nào. Để ghi lại những sự kiện, chiến công và thành tựu to lớn đó, Nhà xuất bản Hồng Đức và tác giả Đặng Việt Thủy đã cho ra đời cuốn sách “Việt Nam - những thời khắc lịch sử, những sự kiện trọng đại” được xuất bản năm 2018. Trên trang bìa của cuốn sách là hình ảnh của Bác Hồ người anh hùng dân tộc Việt Nam và ngôi sao năm cánh tượng trưng cho linh hồn dân tộc và các tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam ta. Hãy cùng trao đổi với tôi để hiểu rõ hơn về cuốn sách ý nghĩa này nhé. Lật từng trang sách đầu tiên, bạn đọc sẽ thấy được khí thế sôi sục của dân tộc ta qua những quyết định lịch sử trọng đại trong Cách mạng tháng Tám 1945. Đây có lẽ là một sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại có ý nghĩa quyết định với vận mệnh của dân tộc ta. Hội nghị toàn quốc Ban chấp hành Trung ương của Đảng cộng sản Đông Dương tiến hành và ra quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Nội dung văn kiện hạ lệnh Tổng khởi nghĩa đã ra đời vào đúng 23 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1945 do Ủy ban Khởi nghĩa ban bố. Càng đọc càng thấy được sự quyết tâm và ý chí kiên cường chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam qua các sự kiện lịch sử như: Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chuyện về vua Bảo Đại thoái vị, Quốc khánh 2-9-1945 được bảo vệ ra sao; Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và Lời kêu gọi của Bác Hồ; Hà Nội - mùa đông năm 1946; ngày ấy trẻ già, gái trai đều một lòng đánh giặc; Vì sao Điện Biên Phủ được cả quân ta và quân Pháp chọn làm điểm quyết chiến chiến lược. Chiến dịch “Điện Biên Phủ mốc vàng thời đại” cho thấy chiến thắng đã đập tan âm mưu quân sự cuối cùng của Pháp, buộc Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đúng như nhà thơ Tố Hữu nói: “Chín năm là một Điện Biên Nên nhành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 - Trải qua ba chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, đặc biệt chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc 21 năm trường kì chống Mỹ; mở ra kỉ nguyên độc lập tự do, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng Cách mạng và trí tuệ con người”. Cuốn sách thực sự là một tài liệu để bạn đọc tham khảo và tìm hiểu thêm về các sự kiện lịch sử diễn ra qua từng giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Sách được biên soạn công phu, khoa học, ngắn gọn, súc tích theo trình tự thời gian dễ theo dõi, dễ nhớ, giúp bạn đọc thêm yêu lịch sử Việt Nam và trân trọng những giá trị về độc lập tự do mà ông cha ta và các anh hùng đã hi sinh mang lại. Mời bạn đọc đón đọc. ![]()
BH
9 tháng 9 2018
Truyền thống dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử - nước Văn Lang - Âu Lạc (3000 - 179 TCN) |
ko bt :D
1. Nội dung lịch sử: Truyện lịch sử thường xoay quanh các sự kiện, nhân vật, và thời kỳ quan trọng trong quá khứ. Nó kể lại những câu chuyện từ lịch sử, thường là những trận chiến, sự kiện cách mạng, hoặc các phong trào xã hội.
2. Nhân vật: Các nhân vật trong truyện lịch sử thường là những nhân vật có thật trong lịch sử, như vua chúa, tướng lĩnh, anh hùng dân tộc. Họ thường được miêu tả với tính cách và động cơ rõ ràng, phản ánh bối cảnh thời đại mà họ sống.
3. Bối cảnh thời gian và không gian: Truyện lịch sử thường thiết lập bối cảnh cụ thể về thời gian và địa điểm, giúp người đọc dễ dàng hình dung về môi trường mà các sự kiện diễn ra.
4. Phong cách viết: Truyện lịch sử có thể được viết dưới nhiều phong cách khác nhau: từ lối viết tiểu thuyết lịch sử với sự kết hợp giữa hư cấu và thực tế, cho đến các bài viết, tác phẩm nghiên cứu mang tính học thuật.
5. Thông điệp và giá trị: Nhiều truyện lịch sử không chỉ đơn thuần là kể lại các sự kiện mà còn chứa đựng thông điệp, bài học về nhân sinh, văn hóa và các giá trị đạo đức.
6. Người kể chuyện: Thông thường, có một người kể chuyện với cái nhìn tổng quát, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các sự kiện và nhân vật.
Truyện lịch sử thường có sức hấp dẫn lớn do khả năng kết hợp giữa kiến thức lịch sử và nghệ thuật kể chuyện, giúp người đọc không chỉ nắm bắt thông tin mà còn cảm nhận được bầu không khí sống động của quá khứ.
Cho xin 1 tick đc hog