Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhân dân ta giành thắng lợi trong công cuộc giữ nước và dựng nước vì:
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Sự đoàn kết, dũng cảm, chấp nhận hi sinh và niềm tin chiến thắng của nhân dân ta.
- Đất nước Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân trên thế giới ưa chuộng hòa bình, đặc biệt là sự giúp sức của đất nước anh em Liên Xô.
Nhân dân ta đấu tranh với mục đích bảo vệ độc lập, tự do, giữ vững chủ quyền lãnh thổ.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do và bảo vệ nền văn hóa, bản sắc dân tộc. Cụ thể, các mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam bao gồm:
-
Chống lại ách thống trị của thực dân Pháp: Đấu tranh để thoát khỏi sự đô hộ, xâm lược của thực dân Pháp, giành lại quyền tự quyết và chủ quyền quốc gia.
-
Đảm bảo tự do và độc lập cho đất nước: Nhân dân ta chiến đấu để chấm dứt sự chiếm đóng và bóc lột của thực dân, khôi phục độc lập và quyền tự do cho dân tộc.
-
Bảo vệ văn hóa dân tộc: Trong bối cảnh thực dân Pháp áp đặt các chính sách đồng hóa và tẩy xóa bản sắc văn hóa, nhân dân Việt Nam đã đấu tranh để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Các phong trào đấu tranh, từ các cuộc khởi nghĩa vũ trang, cuộc đấu tranh chính trị, đến các hoạt động yêu nước của các tầng lớp nhân dân, đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
- Sau khi đánh chiếm Sài Gòn, thực dân Pháp mở rộng xâm lược Nam Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Hà Nội.
- Ngày 18 – 12 – 1946, Pháp gửi tối hậu thư đe doạ, đòi Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Hà Nội cho chúng.
- Nếu ta không chấp nhận thì chúng sẽ nổ súng tấn công; bắt đầu từ ngày 20 – 12 – 1946, quân đội Pháp sẽ đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội.
Vì đó là ngày quân ta giải phóng Sài Gòn, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước hoàn toàn thống nhất, Nam Bắc sum họp một nhà.
Trong nước, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi cách thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra 3 nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi Nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam… Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế, Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu… Ngày 25/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn – Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre,… Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công (1858 – 1945), nhân dân Việt Nam tập trung thực hiện nhiệm vụ chính là đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và bảo vệ nền văn hóa, bản sắc dân tộc. Cụ thể, các nhiệm vụ chính của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn này là:
1. Chống lại ách thống trị của thực dân Pháp-
Kháng chiến vũ trang: Nhân dân Việt Nam đã tiến hành các cuộc khởi nghĩa, chiến đấu chống lại sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp. Các phong trào nổi bật như khởi nghĩa của anh hùng dân tộc như Nguyễn Trung Trực, Trương Định, Phan Đình Phùng, và các cuộc đấu tranh như phong trào Cần Vương (1885) hay khởi nghĩa Yên Thế (1884–1913).
-
Kháng chiến của các tầng lớp nhân dân: Dù thất bại, các cuộc khởi nghĩa này phản ánh sự không chấp nhận sự đô hộ của thực dân Pháp và sự quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc.
-
Tư tưởng cứu nước: Các nhà yêu nước, trí thức như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đã tìm ra các con đường khác nhau để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc, từ việc vận động cải cách theo mô hình phương Tây (Phan Châu Trinh) đến việc ủng hộ bạo động cách mạng (Phan Bội Châu).
-
Hình thành các tổ chức cách mạng: Các tổ chức cách mạng như Hội Duy Tân (1904), Việt Nam Quang Phục Hội (1904), Đông Du (1905) và các tổ chức sau này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào yêu nước, chống Pháp.
-
Phong trào công nhân: Đầu thế kỷ XX, khi các xí nghiệp và đồn điền phát triển, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời và bắt đầu đấu tranh đòi quyền lợi như cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương, giảm giờ làm. Các cuộc đấu tranh như cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (1930) là những bước đi quan trọng trong phong trào công nhân.
-
Phong trào nông dân: Những cuộc khởi nghĩa của nông dân, như phong trào nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh (1930), là một phần của phong trào chống thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho người nông dân bị bóc lột nặng nề.
- Hình thành các tổ chức yêu nước rộng rãi: Nhiều tổ chức chính trị, xã hội đã ra đời với mục đích đoàn kết lực lượng yêu nước, đấu tranh giành độc lập, như Đảng Cộng sản Đông Dương (1930) do Hồ Chí Minh sáng lập, tiếp nối tư tưởng của các tổ chức trước đó như Việt Nam Quốc Dân Đảng, các nhóm trí thức yêu nước.
- Lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ khi Đảng Cộng sản ra đời (1930), dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam đã đi theo con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản chủ trương khởi xướng và tổ chức các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước độc lập, tự do, dân chủ.
- Cuối cùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng đã phát triển mạnh mẽ, kết hợp với sự sụp đổ của thực dân Pháp và Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện Cách mạng Tháng Tám 1945, giành lại độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Trong suốt giai đoạn từ khi thực dân Pháp xâm lược đến Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam chủ yếu tập trung vào đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ quyền lợi cho người dân và khôi phục nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Sau 12 ngày đêm, cuộc tập kích bằng máy bay của Mĩ trong đó có 34 máy bay B52 bị bắn rơi, nhiều chiếc rơi trên bầu trời Hà Nội.
- Đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử không quân Mĩ và là chiến thắng oanh liệt nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc của quân dân ta.
- Do tầm vóc quan trọng của nó, chiến thắng này được gọi là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Tên một số loại khoáng sản ở nước ta: Dầu mỏ,Khí tự nhiên, Than, Sắt, Thiếc, Đồng, Bô-xít, Vàng, A-pa-tit,… – Chỉ những nơi có mỏ sắt, a-pa-tít, bô-xít, dầu mỏ: + Sắt: Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Tĩnh. + Dầu Mỏ: Thềm lục địa phía Đông Nam với các mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông, Rồng….
Điện Biên Phủ
Đó Là ở Điện Biên
Trận Điện Biên Phủ (tiếng Pháp: Bataille de Diên Biên Phu; phát âm: [bataj də djɛ̃ bjɛ̃ fy]), còn gọi là Chiến dịch Trần Đình là trận đánh lớn nhất[6] trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp (gồm Lực lượng Viễn chinh Pháp, Binh đoàn Lê dương Pháp, quân phụ lực bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam).
Đây là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1954) của Việt Nam. Với thắng lợi quyết định này, lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau suốt 2 tháng cầm cự.[7] Giữa trận này, quân Pháp đã gia tăng lên đến 16.200 người nhưng vẫn không thể cầm cự được trước các đợt tấn công như vũ bão của Quân đội Nhân dân Việt Nam.[8] Thực dân Pháp đã không thể bình định Việt Nam bất chấp nhiều năm chiến đấu và với sự hỗ trợ và can dự ngày càng sâu của Hoa Kỳ.[8] Pháp đã không còn bất kì khả năng nào để tiếp tục chiến đấu tại Việt Nam sau thảm bại này.[9]
Trên phương diện quốc tế, chiến dịch này có một ý nghĩa rất lớn và đã đi vào lịch sử nhân loại, bởi đây là lần đầu tiên quân đội của một nước từng là thuộc địa ở châu Á đánh bại đội quân hiện đại và tối tân của một cường quốc châu Âu, được hỗ trợ bởi đồng minh là Hoa Kỳ trong một chiến dịch quân sự lớn. Được xem là một thảm họa bất ngờ đối với Thực dân Pháp và cũng là một đòn giáng mạnh với thế giới phương Tây,[7] đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này phải hòa đàm[7] và rút quân ra khỏi Đông Dương. Với niềm tin được cổ vũ mạnh mẽ bởi chiến thắng này, các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cũng đồng loạt nổi dậy đòi độc lập. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho hầu hết các nước từng là thuộc địa của họ.
Qua đó, thắng lợi của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ còn được xem là một cột mốc đánh dấu thất bại hoàn toàn của Pháp trong nỗ lực tái gây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của họ nói chung sau Chiến tranh thế giới thứ hai,[8][10] qua đó chấm dứt hơn 400 năm tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới này.