K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 3 2022

refer

Hiệp ước Hác măng gồm 27 điều khoản với nội dung cơ bản như sau: Triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của người Pháp; mọi hoạt động ngoài giao kể cả với Trung Quốc đều do Pháp nắm giữ Cắt tỉnh Bình Thuận từ Trung Kỳ nhập vào Nam Kỳ – thuộc địa của Pháp từ năm 1874. Quân Pháp được đóng quân ở cửa Thuận An và Đèo Ngang.

25 tháng 3 2022

còn pa tơ nốt?

7 tháng 4 2021

- Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp.
- Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống
Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc.

- Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp.
- Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống
Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc.

12 tháng 5 2021

- Ngày 5/6/1862 triều đình Huế kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất với các nội dung sau:

+ Thừa nhận sự cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì ..

+ Cho người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền bá đạo Gia Tô

+ Bồi thường cho Pháp một khoảng chiến phí tương đương 288 lạng bạc

+ Sau hiệp ước giáp tuất triều đình Huế tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Trung Kì và Bắc Kì, đồng thời găn cản các phong trào kháng chiến của nhân dân ta ở Nam Kì.

- Ngày 15/3/1874 triều đình Huế lại kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất

+ Pháp rút quân khỏi Bắc Kì còn triều đình chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc về Pháp

- Ngày 25/8/1883 triều đình kí với Pháp hiệp ước Quý Mùi( hay gọi là hiệp ước Hác-măng)

+ Triều đình chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kì và Trung Kì .

+ Thu hẹp phạm vi khu vực Trung Kì do triều đình cai quản

+ Mọi hoạt động của triều đình do công xứ Pháp thường xuyên kiểm soát

+ Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm ….

+ Triều đình Huế rút quân đội ở Bắc kì về Trung Kì …

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt:

+ Thực dân Pháp trả lại tỉnh Thanh- Nghệ -Tĩnh và Bình Thuận cho Trung kì để triều đình cai quản như cũ, để xoa dịu sự công phẫn của nhân dân, và mua chuộc, lung lạc quan lại phong kiến triều Nguyễn.

  
28 tháng 1 2023

 Ngày 5/6/1862 triều đình Huế kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất với các nội dung sau:

+ Thừa nhận sự cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì ..

+ Cho người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền bá đạo Gia Tô

+ Bồi thường cho Pháp một khoảng chiến phí tương đương 288 lạng bạc

+ Sau hiệp ước giáp tuất triều đình Huế tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Trung Kì và Bắc Kì, đồng thời găn cản các phong trào kháng chiến của nhân dân ta ở Nam Kì.

- Ngày 15/3/1874 triều đình Huế lại kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất

+ Pháp rút quân khỏi Bắc Kì còn triều đình chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc về Pháp

- Ngày 25/8/1883 triều đình kí với Pháp hiệp ước Quý Mùi( hay gọi là hiệp ước Hác-măng)

+ Triều đình chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kì và Trung Kì .

+ Thu hẹp phạm vi khu vực Trung Kì do triều đình cai quản

+ Mọi hoạt động của triều đình do công xứ Pháp thường xuyên kiểm soát

+ Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm ….

+ Triều đình Huế rút quân đội ở Bắc kì về Trung Kì …

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt:

+ Thực dân Pháp trả lại tỉnh Thanh- Nghệ -Tĩnh và Bình Thuận cho Trung kì để triều đình cai quản như cũ, để xoa dịu sự công phẫn của nhân dân, và mua chuộc, lung lạc quan lại phong kiến triều Nguyễn.

  

11 tháng 3 2019

- Hiệp ước Hác- măng đánh dấu sự kết thúc hoàn toàn của quá trình xâm lược Việt nam của thực dân Pháp. Với hiệp ước này Việt nam chính thức trở thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến.
- Hiệp ước Pa-tơ- nốt chỉ là một hiệp ước điều chỉnh một số nội dung từ hiệp ước Hác- măng nhằm xoa dịu dư luận và phong trào đấu tranh của quần chúng.

12 tháng 3 2019

Cảm ơn ạ

29 tháng 3 2021

- Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862): thừa nhận sự cai quản của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán,...

- Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874): chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.

- Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883): Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6-6-1884): Triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp.

28 tháng 1 2023

 Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862): thừa nhận sự cai quản của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán,...

- Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874): chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.

- Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883): Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6-6-1884): Triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp.

22 tháng 5 2018

Trả lời:

a. Nội dung cơ bản của h/ư Nhâm Tuất 1862:

  • Triều đình thừa nhận quyền cai quản của nước Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn lôn
  • Mở ba cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào buôn bán cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây.
  • Bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc.
  • Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến.

b. Nội dung cơ bản của h/ư Giáp tuất 1874:

  • TD Pháp rút quân khỏi Bắc kì
  • Triều đình chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam kì hoàn toàn thuộc Pháp

c. Nội dung cơ bản của h/ư Hác-măng 1883:

  • Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp.
  • Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kì
  • Triều đình chỉ được cai quản vùng đất trung kì nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ của Pháp ở Huế.
  • Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình, nắm các quyền trị an và nội vụ.
  • Mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.
  • Triều đình Huế phải rút quân đội từ Bắc Kì về Trung Kì.

d. Nội dung H/ư Pa-tơ-nốt:

  • Nội dung cơ bản giống H/ư Hác-măng
  • Chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực trung kì nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.

=> Chấm dứt sự tồn tại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến kéo dài đến cách mạng Tháng Tám năm 1945.

17 tháng 4 2018

-HẮC-MĂNG:

Hiệp ước Hắc-Măng được ký kết vào ngày 25 tháng 8 năm 1883 tại kinh đô Huế giữa đại diện của Pháp là François Jules Harmand - Tổng ủy , đại diện ngoại giao cho nước Cộng hoà Pháp và đại điện của triều Nguyễn là Trần Đình Túc - Hiệp biện Đại học sĩ , Nguyễn Trọng Hợp - Thượng thư Bộ Lại. Hoà ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Hiệp ước này chính thức đánh dấu thời kỳ, 1883-1945, toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của Thực dân Pháp

-PA-TƠ-NỐT:

Hòa ước Giáp Thân 1884 hay còn có tên là Hòa ước Patenôtre, là hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại kinh đô Huế gồm có 19 điều khoản. Đại diện nhà Nguyễn là Phạm Thận Duật - Toàn quyền đại thần, Tôn Thất Phan - Phó Toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phụ chính đại thần và đại diện của Pháp là Jules Patenôtre - Sứ thần Cộng hoà Pháp

THEO MÌNH HỌC THÊM LÀ NHƯ THẾ !

16 tháng 3 2022

tham khảo

 

- Nội dung cơ bản của hiệp ước Nhâm Tuất 1862:

+Triều đình thừa nhận quyền cai quản của nước Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn lôn

+Mở ba cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào buôn bán cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây.

+Bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc.

+Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến.

=> Nhận xét:
- Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp.
- Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc.

- Nội dung cơ bản của hiệp ước Hác-măng 1883:

+Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp.

+Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kì

+Triều đình chỉ được cai quản vùng đất trung kì nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ của Pháp ở Huế.

+Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình, nắm các quyền trị an và nội vụ.

+Mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

+Triều đình Huế phải rút quân đội từ Bắc Kì về Trung Kì.

=> Nhận xét:
- Tuy nội dung hiệp ước chỉ nói đến mức độ bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và trung Kì nhưng thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định. Vì vậy, thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lạp. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp.
=> Với hiệp ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của triều đình phong kiến và bè lũ vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc.

-Nội dung hiệp ước Pa-tơ-nốt:

+ Nội dung cơ bản giống hiệp ước Hác-măng

+ Chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực trung kì nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.

=>Nhận xét :
- Việc kí kết hiệp ước đó không làm thay đổi căn bản tình hình nước ta, kẻ thù vẫn nham hiểm và đô hộ nước ta, triều đình vẫn đầu hàng, can tâm làm tay sai cho giặc.

===>Từ các bản hiệp ước nói trên ta đã có dủ bằng chứng kết luận từ năm 1858 - 1884, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng từng bước tiến tới đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược Pháp.

16 tháng 3 2022

Tham khảo từ chị minh nguyet

 

- Ngày 5/6/1862 triều đình Huế kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất với các nội dung sau:

+ Thừa nhận sự cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì ..

+ Cho người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền bá đạo Gia Tô

+ Bồi thường cho Pháp một khoảng chiến phí tương đương 288 lạng bạc

+ Sau hiệp ước giáp tuất triều đình Huế tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Trung Kì và Bắc Kì, đồng thời găn cản các phong trào kháng chiến của nhân dân ta ở Nam Kì.

- Ngày 15/3/1874 triều đình Huế lại kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất

+ Pháp rút quân khỏi Bắc Kì còn triều đình chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc về Pháp

- Ngày 25/8/1883 triều đình kí với Pháp hiệp ước Quý Mùi( hay gọi là hiệp ước Hác-măng)

+ Triều đình chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kì và Trung Kì .

+ Thu hẹp phạm vi khu vực Trung Kì do triều đình cai quản

+ Mọi hoạt động của triều đình do công xứ Pháp thường xuyên kiểm soát

+ Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm ….

+ Triều đình Huế rút quân đội ở Bắc kì về Trung Kì …

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt:

+ Thực dân Pháp trả lại tỉnh Thanh- Nghệ -Tĩnh và Bình Thuận cho Trung kì để triều đình cai quản như cũ, để xoa dịu sự công phẫn của nhân dân, và mua chuộc, lung lạc quan lại phong kiến triều Nguyễn.

Nhận xét: Triều đình Huế nhu nhược, muốn lấy lại đất nước qua con đường thương thuyết nhưng càng ngày càng để đất nước rơi vào tay Pháp, cuối cùng mất quyền kiểm soát đất nước -> Đất nước trở thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến.

6 tháng 3 2018

Hác măng

=> Với hiệp ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của triều đình phong kiến và bè lũ vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc.

Pa-tơ-nốt

=> Nhận xét :
- Việc kí kết hiệp ước đó không làm thay đổi căn bản tình hình nước ta, kẻ thù vẫn nham hiểm và đô hộ nước ta, triều đình vẫn đầu hàng, can tâm làm tay sai cho giặc.

Suy nghĩ:

Dựng nước phải đi đôi với giữ nước là quy luật đã được đúc kết và chứng minh bằng thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta. Ngày nay, nhân dân ta đang sống trong tự do, độc lập và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó cũng chính là sự tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc trong điều kiện mới. Vì vậy, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân là một đòi hỏi khách quan, một bảo đảm để đất nước ổn định, phát triển theo định hướng XHCN; đồng thời, luôn chủ động, sẵn sàng đối phó có hiệu quả với mọi toan tính hòng làm suy yếu, thậm chí gây chiến, xâm lược đất nước ta của các thế lực thù địch.

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội đã rất chú trọng xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân. Các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Công tác giáo dục trong nhà trường được đẩy mạnh, chú trọng bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc cho thế hệ trẻ. Công tác giáo dục quốc phòng- an ninh cho các đối tượng được các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và đạt hiệu quả khá tích cực. Báo chí, phát thanh, truyền hình, văn hóa, văn nghệ,... đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giáo dục, định hướng nhận thức cho các tầng lớp nhân dân... Những việc làm đó đã góp phần nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức làm chủ, thái độ tự giác của mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình’’ của các thế lực thù địch.

Tuy nhiên, bên cạnh số đông đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân kế thừa và phát huy tốt truyền thống yêu nước XHCN, tích cực đóng góp sức lực, trí tuệ, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, vẫn còn một bộ phận có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, niềm tin về độc lập dân tộc và CNXH, nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, nhất là về chiến lược “Diễn biến hòa bình’’ của các thế lực thù địch. Đáng lo là, một bộ phận trong lớp trẻ có biểu hiện xem thường những giá trị văn hóa truyền thống, thành quả của sự nghiệp đổi mới, tôn sùng những giá trị của văn hóa, lối sống phương Tây, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng thiếu yên tâm với nhiệm vụ, không gắn bó với quân đội trong một bộ phận nhỏ cán bộ, chiến sĩ vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Chúng ta đều biết, ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN là sản phẩm của điều kiện xã hội lịch sử cụ thể; được hình thành và phát triển gắn với từng giai đoạn hình thành, phát triển của Tổ quốc XHCN. Theo đó, không có Tổ quốc XHCN thì không thể xây dựng được ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, xuất phát từ nhận thức về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, việc xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân có thể và phải được tiến hành ngay trong quá trình xây dựng CNXH. Một vấn đề khác, tuy ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN bao gồm hai mặt có tính độc lập tương đối (ý thức bảo vệ Tổ quốc và ý thức bảo vệ chế độ XHCN), song chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải đấu tranh chống lại các quan điểm cố tình đối lập Tổ quốc với chế độ XHCN, thực chất là đòi xoá bỏ chế độ XHCN hiện nay. Mặt khác, cũng cần khắc phục những quan điểm đồng nhất một cách cứng nhắc, máy móc giữa bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chế độ XHCN. Bởi lẽ, trong thực tiễn, có không ít người (nhất là người Việt Nam ở nước ngoài), hiện nay chưa hiểu đầy đủ và chưa có tình cảm với chế độ XHCN, nhưng họ vẫn yêu Tổ quốc và có ý thức, hành động tham gia xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng các hình thức khác nhau. Họ hoàn toàn khác với những kẻ cơ hội về chính trị, giả danh yêu nước, nhưng thực chất là đang phá hoại sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

Con đường cơ bản để xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là phải kết hợp giáo dục với xây dựng CNXH hiện thực trên đất nước ta.

Đối với công tác tuyên truyền, giáo dục, cần tập trung làm cho các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về mối quan hệ không thể tách rời giữa độc lập dân tộc và CNXH. Độc lập dân tộc là giá trị vô cùng lớn lao, thấm đượm truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta. Bởi vậy, việc tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng xây dựng niềm tự hào của thế hệ ngày nay đối với những thành quả đấu tranh giành độc lập dân tộc mà ông, cha ta đã thực hiện; đặc biệt là những thành quả mà nhân dân ta đã giành được trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh việc giáo dục về những giá trị của độc lập dân tộc, cần nâng cao hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân về CNXH – một chế độ mới, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ và văn minh. Giáo dục về CNXH là định hướng về một chế độ xã hội ưu việt. Song để đạt được mục tiêu đó, phải trải qua nhiều chặng đường gay go, phức tạp, mà hiện nay chúng ta mới kết thúc chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Do đó, trong giáo dục, cần tập trung phân tích, lý giải để mọi người hiểu sâu sắc, vì sao chúng ta xây dựng CNXH nhưng lại phát triển nền kinh tế thị trường; vì sao Đảng, Nhà nước ta lại chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế,v.v. Vấn đề căn bản là, bức tranh về CNXH phải là bức tranh hiện thực của đất nước ta hiện nay, không cường điệu, nhưng cũng không hạ thấp. Trên cơ sở đó, công tác tuyên truyền, giáo dục cần tập trung xây dựng tình cảm, niềm tin của nhân dân vào độc lập dân tộc và CNXH; nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân.

Một nội dung giáo dục khác không kém phần quan trọng là, đẩy mạnh tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Một trong những vấn đề nổi lên trong đời sống chính trị của đất nước hiện nay là thái độ chính trị của nhân dân trước những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch. Điều đáng lo là, một bộ phận trong thế hệ trẻ hiện nay thờ ơ với chính trị. Đó không chỉ là sự mất cảnh giác, mà còn là nguy cơ của sự “ tự diễn biến’’ cực kỳ nguy hiểm. Do đó, để xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân, cần tập trung tuyên truyền, nhất là trong thế hệ trẻ về bản chất không thay đổi của chủ nghĩa tư bản; làm rõ những mặt trái đằng sau vẻ hào nhoáng của xã hội tư bản; nhất là, những âm mưu, thủ đoạn tinh vi của các thế lực thù địch lợi dụng khó khăn của đất nước và những kẽ hở trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta để chống phá. Công tác giáo dục quốc phòng-an ninh trong các cơ quan, bộ, ngành, nhà trường và trong nhân dân cần được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ; tập trung làm cho các đối tượng nắm vững quan điểm, đường lối quốc phòng-an ninh, nhất là tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới; làm cho mọi người nhận thức sâu sắc rằng, bảo vệ Tổ quốc phải được hiểu theo nghĩa rộng, gồm: bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nền văn hoá giầu bản sắc của dân tộc, bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân. Đặc biệt, cần tăng cường giáo dục để mọi người thấy rõ âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình’’ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta; xây dựng tinh thần cảnh giác cách mạng, phân biệt đối tượng với đối tác; hình thành ý thức tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc cho mọi người dân; xây dựng động cơ đúng đắn đối với thanh niên trong việc thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng, phục vụ quân đội lâu dài.

Cùng với đó, công tác giáo dục cần gắn bó hơn nữa với cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hoá; một mặt, khẳng định tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta; mặt khác, vạch rõ tính chất phản khoa học, phản cách mạng của những luận điệu tuyên truyền, kích động, chống phá của các thế lực thù địch. Nhiệm vụ này là của toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là ngành tư tưởng, văn hoá và giáo dục. Việc trang bị kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong hệ thống giáo dục quốc dân phải mang tính khoa học, tính thực tiễn sâu sắc và không tách rời với tính chiến đấu, tính phê phán. Công tác tư tưởng phải kiên quyết đấu tranh không nhân nhượng với những quan điểm, nhận thức, thái độ lệch lạc, lẫn lộn giữa đúng với sai, giữa văn hoá và phản văn hoá. Các phương tiện thông tin đại chúng phải góp phần cổ vũ, động viên kịp thời những gương điển hình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phê phán những nhận thức, việc làm trái với lợi ích của đất nước, dân tộc.

Một yêu cầu khác là, để xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân, các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể phải tạo điều kiện để mọi người dân đều có cơ hội tham gia thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho nhân dân tham gia tích cực các hoạt động góp phần thực hiện các mục tiêu an ninh-quốc phòng, như: phong trào “Đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự thôn bản, biên giới’’; “Xây dựng cụm dân cư tiên tiến’’; Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư’’. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên, cần hướng tới các hoạt động mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, như: “Trí thức trẻ với Tổ quốc XHCN’’; phong trào “Thanh niên tình nguyện’’, “Xây dựng Làng thanh niên lập nghiệp’’... Qua đó, tiếp tục giáo dục lòng yêu nước XHCN, xây dựng ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Tuy nhiên, hoạt động giáo dục sẽ không đem lại kết quả như mong muốn, nếu như quá trình xây dựng CNXH trên đất nước ta không trở thành hiện thực sinh động. Để xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải ra sức phấn đấu để đất nước ta ngày một phát triển; các chỉ tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh đề ra đều được triển khai thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao. Theo đó, các cấp, các ngành phải phấn đấu hiện thực hoá các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thành những phát triển, đổi thay trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người lao động. Phấn đấu để tạo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế là điều đáng mừng, nhưng quan trọng hơn là đời sống vật chất, tinh thần của mỗi người dân phải ngày càng được cải thiện; công bằng trong xã hội ngày càng được đảm bảo. Chỉ có trên cơ sở đó, mỗi người dân mới thấy hết trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc XHCN. Để xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân, các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể phải thực sự chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội; đảng viên, cán bộ phải đi đầu trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’’, kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, tạo lòng tin cho nhân dân vào chế độ XHCN. Đó là cách tốt nhất để ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN của mọi người dân Việt Nam hình thành và phát triển bền vững.