Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thế thì khi ta đứng trong tàu hoả đang chạy với tốc độ cao, sau khi nhảy lên, có phải ta cũng vẫn rơi xuống chỗ cũ như vậy chăng?
Có thể có người nghĩ như thế này: Tàu hoả đang chạy với tốc độ cao, trong quãng thời gian sau khi con người nhảy lên, tàu hoả đã chạy được một đoạn, con người phải rơi xuống ở chỗ lùi lại một ít. Tàu hoả chạy càng nhanh, khoảng cách so với chỗ cũ sau khi rơi xuống càng xa. Song sự thực cho chúng ta biết: Khi tàu hoả đang chạy với tốc độ cao, sau khi nhảy lên vẫn rơi đúng vào chỗ cũ. Vì sao lại như thế nhỉ?
Nguyên nhân là bất cứ vật thể nào cũng đều có quán tính. Chuyển động của vật thể phải tuân theo định luật quán tính. Nội dung của định luật quán tính (tức là định luật thứ nhất của Newton): Trong điều kiện không chịu tác động của ngoại lực, trạng thái chuyển động của vật thể sẽ không thay đổi. Khi tàu hoả đang chạy với tốc độ cao, cho dù con người đứng yên, nhưng trên thực tế người ấy đã lao về phía trước cùng với tàu hoả, với cùng một tốc độ như của tàu hoả. Khi người ấy nhảy lên, vẫn lao về phía trước cùng tàu hoả với cùng một tốc độ. Vì vậy, khi người ấy rơi xuống vẫn là chỗ cũ.
Đã từng có người nghĩ ra một ý “”tuyệt diệu””. Anh ta nói: chỉ cần tôi ngồi lên khí cầu bay lên cao, do sự tự quay của Trái Đất, tôi có thể trông thấy mặt đất ở phía dưới dịch chuyển nhanh chóng. Nếu bay lên từ Thượng Hải, dừng ở trên không khoảng một giờ rưỡi rồi lại hạ xuống, chẳng phải là đã đến thành La Sa của Khu tự trị Tây Tạng hay sao? Rõ ràng đó là chuyện không thể xảy ra. Vì rằng mọi vật xung quanh Trái Đất như con người, khí cầu, không khí… đều quay cùng Trái Đất mà!
Không nơi nào là không có quán tính. Khi một chiếc ô tô đang chạy rất nhanh, bỗng nhiên phanh gấp lại, người trong xe đều bị xô về phía trước, khi xe bỗng nhiên khởi động, người trong xe lại ngả về phía sau. Đó đều là do quán tính.”
Gọi S là quãng đường ô tô đi đến chỗ người đón.
\(S_1\) là khoảng cách chỗ người đó đang đứng đến nới ô tô đang đứng.
\(S_2\) là khoảng cách từ chỗ người đó đến quãng đường.
\(\Rightarrow S=\sqrt{S_1^2-S_2^2}=\sqrt{206^2-100^2}=6\sqrt{901}m\)
\(v=36\)km/h=10m/s
Thời gian ô tô đi đến chỗ đón:
\(t=\dfrac{S}{v}=\dfrac{6\sqrt{901}}{10}=18s\)
Vận tốc đi để vừa gặp ô tô là:
\(v'=\dfrac{S_1}{t}=\dfrac{100}{18}=5,55\)m/s
Có 3 loại lực ma sát
- Ma sát trượt sinh ra khi một vật trượt trên bề mặt của vật khác
- Ma sát lăn sinh ra khi một vật lăn trên bề mặt của vật khác
- Ma sát nghỉ giữ cho vật không trượt khi vật bị tác dụng của lực khác
- Ma sát có hại: giày đi mãi đế bị mòn...
- Ma sát có lợi: đi xe phanh gấp...
- Tang lực ma sát: tăng độ nhám của bề mặt ma sát
- Giảm độ ma sát: tăng độ nhawn của bề mặt ma sát, bôi dầu mỡ trơn, chuyển ma sát trượt thành ma sát lăn
* Có 3 loại lực ma sát:
- Lực ma sát trượt: sinh ra khi một vật trượt trên bề mặt của vật khác, gây cản trở chuyển động trượt.
VD: Khi ô tô ngoặt gấp, bóp phanh mạnh, bánh xe ngừng chuyển động và trượt trên mặt đường.
- Lực ma sát lăn sinh ra khi một vật lăn trên bề mặt của vật khác, gây cản trở chuyển động lăn.
VD: Viên bi khi bị một lực tác dụng vào sẽ lăn, rồi sau đó sẽ dần chậm lại và ngừng hẳn.
- Lực ma sát nghỉ xuất hiện khi có lực tác dụng nhưng vật vẫn không chuyển động.
VD: Khi ta kéo một vật với một lực kéo nhẹ, vật đứng yên.
* Lực ma sát có lợi:
- Khi viết bảng, xuất hiện lực ma sát trượt giữa phấn và bảng.
- Khi quẹt diêm, xuất hiện lực ma sát trượt giữa diêm và hộp tạo nên lửa
* Lực ma sát có hại:
- Khi đạp xe, xuất hiện ma sát trượt giữa xích và đĩa => Làm mòn.
- Khi quay ổ bi, xuất hiện ma sát lăn giữa trục quay và bi => Làm mòn.
* Muốn tăng lực ma sát:
- Làm bề mặt tiếp xúc gồ ghể, xù xì. Tăng độ nhám của bề mặt.
* Muốn giảm lực ma sát:
- Làm bề mặt tiếp xúc phẳng, nhẵn. Giảm độ nhám của bề mặt.
Thời gian đi hết quãng đường đầu là:
\(t_1=\dfrac{s_1}{v_1}=\dfrac{\dfrac{1}{4}s}{45}=\dfrac{s}{180}\)
Thời gian đi hết quãng đường thứ hai là:
\(t_2=\dfrac{s_2}{v_2}=\dfrac{\dfrac{2}{3}s}{50}=\dfrac{s}{75}\)
Quãng đường cuối cùng dài:
\(s_3=s-s_1-s_2=s-\dfrac{1}{4}s-\dfrac{2}{3}s=\dfrac{1}{12}s\)
Thời gian đi hết quãng đường cuối là:
\(t_3=\dfrac{s_3}{v_3}=\dfrac{\dfrac{1}{12}s}{30}=\dfrac{s}{360}\)
Vận tốc trung bình trên cả 3 quãng đường là:
\(v_{tb}=\dfrac{s_1+s_2+s_3}{t_1+t_2+t_3}=\dfrac{s}{\dfrac{s}{180}+\dfrac{s}{75}+\dfrac{s}{360}}=\dfrac{600}{13}\) (km/h)
Vậy...
- Mình nghĩ là nên xây câu bắc qua chì chả đụng chạm gì đến mặt sân cả
Có thể đặt tấm ván bằng gỗ đặt ở sân để lót mặt sàn xi măng còn ướt mà không để lại các vết chân trên mặt đất
CHÚC BẠN HỌC TỐT...........
Mình không chắc về kết quả nhưng mong rằng có thể giúp được bạn
50m B C A 130m v 1 v 2
Gọi A là vị trí người đó và ô tô gặp nhau, B là vị trí ban đầu của người đó và C là vị trí của ô tô khi người đó thấy nó
Tam giác ABC vuông tại A nên ta có:
sAB2 + sAC2 = sBC2 (theo định lí Py-ta-go)
=> sAC2 = sBC2 - sAB2
=> sAC2 = 1302 - 502
=> sAC = 120 (m) (vì sAC > 0)
Thời gian ô tô đến A là:
\(t=\dfrac{s_{AC}}{v_1}=\dfrac{120}{10}=12\) (giây)
Để người đó gặp được ô tô thì vận tốc của người đó là:
\(v_2=\dfrac{s_{AB}}{t}=\dfrac{50}{12}=\dfrac{25}{6}\left(m/s\right)\)
Vậy...
Gọi A là điểm nối vuông góc người đó với đường thẳng.
B là điểm xe cách người đó 130m.
C là điểm người đó đứng.
A B C 130m 50m
Theo định lý Py-ta-go ta có:
\(BC^2=AB^2+AC^2\)
\(\Leftrightarrow AB^2=BC^2-AC^2=130^2-50^2=14400\)
\(\Leftrightarrow AB=120\left(m\right)\)
Thời gian để xe ô tô đi từ B đến A là:
\(t_1=\dfrac{S_{AB}}{V_1}=\dfrac{120}{10}=12\left(s\right)\)
Vận tốc của người đó đi đến từ C đến A và gặp ô tô là:
\(V_2\ge\dfrac{S_{AC}}{t_1}=\dfrac{50}{12}=4\dfrac{1}{6}\)m/s
Vậy...
giải như pitago thoi
\(130^2=50^2+L^2=>l=120m\)
đây là khoảng cách tới chỗ vuông góc mà xe đến đó để cho người
=> tg xe đi đến đó là t=\(\dfrac{l}{Vx}=\dfrac{120}{15}=8s\)
vận tốc của người đó để đến vừa đúng lúc là
V=\(\dfrac{S}{t}=\dfrac{50}{8}=6,25m\s\)
130 chứ đâu Phải 120 đâu bn