Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài làm
Hà Nội ngày 21 tháng 05 năm 2016
Bạn Komako thân mến!
Tớ tên là Nguyễn Nhật Linh học sinh lớp 7 tớ đến từ đất nước Việt Nam. Tuần vừa qua tớ được du ngoại cùng đất nước bạn với nhiều ấn tượng đẹp và đáng nhớ nhưng chỉ là qua màn ảnh nhỏ.
Tớ ao ước rằng một ngày gần đây tớ sẽ được đến thăm đất nước đất nước Nhật Bản thân yêu của bạn để được trượt trên nền tuyết trắng, được khoắc trên mình bộ kimono duyên dáng của đất bạn. Được thưởng thức cái lạnh buốt giá.
Bạn Komako thân mến!
Đất nước Việt Nam của tớ là có hình chữ s với khí hậu ôn đới. Một năm có bốn mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu khá ấm áp và dễ chịu.
Mùa xuân là mùa của những lễ hội và vui chơi. Mùa của cây cối trăn hoa đua nở, vươn trồi nẩy lộc, mùa của những tuổi trẻ và tình yêu con người căng trằn sức sống. Mùa thu với cơn gió heo may với gió se se lạnh làm cho con người ta như muốn hít thở tất cả vào lòng. Mùa của la vàng rụng đầy đường phố cả thành phố như tràn ngập sắc vàng.
Mùa hè là mùa của du lịch vì đất nước tớ bao bọc xung quanh đều là biển cả. Mùa đông ở đây không quá lạnh, là mùa của những lễ cưới con người như chờ đợi từng ngày để đến mùa đông sửa ấm cho nhau. Mùa hạ với cái thời tiết khô hanh, màu của những cơn mưa rào trời như đổ nước xuống tưới tiêu cho hoa màu xanh mơm mẩn.
Bạn Komako thân mến!
Đất nước tớ là một đất nước rất giàu và đẹp bạn à. Có rất nhiều những khu du lịch đã được unetco công nhận là di sản thế giới như: Vịnh Hạ Long, Phong Nha Kẻ Bàng, Phố Cổ Hội An, Nhã Nhạc Cung Đình Huế……
Nếu có dịp bạn sang Việt Nam tớ sẽ sẵn sằng làm hướng dẫn viên du lịch cho bạn. Chúng ta sẽ có cuộc vi hành từ Bắc vào Nam. Điểm đầu tiên chúng ta dừng chân đó sẽ là quê hương của người Bác kính yêu của đất nước tớ đó là Nghệ An. Tớ muốn bạn biết rằng tuy Bác là một vị lãnh tụ của đất nước nhưng Bác vẫn có cuộc sống giản dị mà thanh cao.
Điểm tiếp theo chúng ta đến sẽ là Huế mộng mơ. Bạn sẽ được ngắm dòng sông hương lặng lờ trôi nó đang vươn mình chuyển hướng nhưng không hề có một tiếng động nào cả. Vẫn cứ im lìm lặng yên. Rồi những cô gái Huế mặc áo tím thủy chung với giọng Huế ngọt ngào dễ đi và lòng người.
Và điểm ta không thể bỏ qua đó là Đà Nẵng với cái tên thành phố đáng sống. Bạn sẽ được nằm dài dưới bãi biển Mỹ Khê cắt trắng, ngắm nhìn những lớp sóng xô bờ. Điểm đến cuối cùng đó là Hội An. Với những phố cổ dài, kiến trúc hoàn mĩ không chê vào đâu được, con người ở đây bình yên lặng lẽ.
Việt Nam quê tớ còn nhiều thứ đẹp lắm tớ sẽ giới thiệu bạn dần dần. Có lẽ bạn đã hình dung được một phần đất nước Việt Nam của tớ và hiểu vì sao con người Việt Nam cần cù và anh dũng lại yêu quê hương đất nước mình đến thế.
Dân tộc Việt Nam rất cởi mở và hiếu khách. Chúng tớ sẵn sằng giang rộng đôi tay kết bạn với bạn bè trên toàn quốc và hợp tác để xây dựng cuộc sống hòa bình trên thế giới.
Thư đã dài tớ xin dừng bút tại đây. Chúc bạn và gia đình luôn bình an hạnh phúc. Tạm biệt bạn !
Thân ái chào bạn!
Nguyễn Nhật Linh
Vạn Thắng ngày 18 tháng 5 năm 2016
Bạn An-na thân mến!
Chắc bạn rất ngạc nhiên khi nhận được bức thư này vì bạn chưa biết mình một người Việt Nam, nhưng mình lại biết bạn qua xem chương trình truyền hình về nước Nga. Chính vì thế mà mình muốn viết thư làm quen với bạn.
Mình tự giới thiệu nhé: Mình tên là Nguyễn Trần Phương Nhi, học lớp 3A trường Tiểu học vạn Thắng 2 ở Vạn Ninh - Khánh Hòa, nước Việt Nam. Mình viết thư này để mong bạn cho mình biết về bạn: bạn năm học lớp mấy? Học giỏi môn nào? Thích chơi môn gì? Gia đình bạn ra sao?... Mình còn muốn biết thêm về đất nước, về cuộc sống của người dân Nga... Được như thế, mình và bạn trên thế giới sẽ được cùng chung sống hạnh phúc trong ngôi nhà chung: Trái đất này là của chúng mình ...
Chúc bạn luôn học giỏi và tràn đầy sức khỏe nhớ viết thư cho mình nhé!
Người bạn Việt Nam.
Nguyễn Trần Phương Nhi
1. Mở bài:
- Lời chào, lời làm quen đầu thư.
- Nêu lí do viết thư cho bạn.
2. Thân bài:
* Giới thiệu phong cảnh đẹp đẽ của đất nước Việt Nam :
- Vẻ dẹp bốn mùa.
- Các thắng cảnh ở Sa Pa, Hà Nội, Hạ Long, Huế, Sài Gòn, Hà Tiên, Cà Mau...
* Giới thiệu phong tục của Việt Nam:
- Tết Nguyên Đán với bánh chưng, bánh giầy.
- Tết Trung Thu và các lễ hội khác...
3. Kết bài:
- Bày tỏ cảm xúc tự hào, yêu mến của mình về đất nước.
- Bày tỏ nguyện vọng được giới thiệu rộng rãi với bè bạn năm châu về đất nước Việt Nam tươi đẹp.
- Rất mong một ngày nào đó dược đón tiếp các bạn quốc tế đến thăm đất .nước minh.
- Lời chúc cuối thư.
MB: Chào hỏi, ngày tháng,...
Tb: - Hỏi thăm về sức khỏe, gia đình, học tập
- Cảm ơn vì đã gửi thư lần trước, đã cho mình biết về đất nược bạn
-Hôm nay kể về nc mình
- Tên nước, hình dáng, khí hậu,..
- G. thiệu về đặc điểm thời tiết, các hoạt động ở mỗi mùa
- Kể về các cảnh đẹp đất nước
-Kể về các truyền thống, tục lệ lâu đời
- Kể về ẩm thực nước mình, các món ăn truyền thống
- Kể về tính cách người Việt
- Mời bạn sang nước mình chơi, hứa sẽ đi đâu đó chẳng hạn
KB: Chúc sức khỏe và "nhớ hồi âm"
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Ai đưa con sáo sang sông,
Để cho con sáo sổ lồng bay ra.
Anh về học lấy chữ hương,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Anh đi anh nhớ non buồi
Nhớ sông Vị Thủy, nhớ người còn trinh
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Ai về Hà Tĩnh thì về,
Mặc lụa chợ Hạ, uống chè hương sen.
Ai về Tuy Phước ăn nem,
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.
Ai về đến huyện Đông Anh,
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương.
Cổ Loa hình ốc khác thường,
Trải qua năm tháng, nẻo đường còn đây.
Anh hùng là anh hùng rơm,
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.
Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Anh đi Bình Định ở lâu,
Chiều chiều em đứng vườn dâu ngó chừng.
Hai hàng nước mắt rưng rưng,
Chàng xa thiếp cách, ngang chừng muốn băng.
Phụ mẫu nhà la dức rầm rầm,
Cơm sao ngơ ngáo, làm không muốn làm.
Bởi chưng thiếp bắc chàng nam,
Giơ tay không nổi còn làm việc chi.
Ai về nhớ Vải Ninh Hòa,
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê,
Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê,
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào.
Ai về Nhượng Bạn thì về,
Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.
Anh ơi! Cố chí canh nông
Chín phần ta cũng dự trong tám phần
Hay gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng lấy lúa,chăn tằm lấy tơ.
C[sửa]
Cây cao thì gió càng lay ,
Càng cao danh vọng càng dày gian nan.
D[sửa]
Dã tràng se cát biển đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Dù em con bế con bồng,
Thi đua yêu nước quyết không lơ là.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Cơm nắm lá cọ là người sông Thao.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Dao cau rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc,mắt nàng nàng đưa.
Ai về đến huyện Sa Pa
Nhớ xem phong cảnh nóc nhà Đông Dương
Đ[sửa]
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
Con gái nói có là không,
Nói yêu là ghét, nói buồn là vui.
Đàn ông đi biển có đôi,
Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Đời người có một gang tay,
Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang.
Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi,
Mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông.
Đa tình thì vướng nợ tình,
Trách người đã vậy, trách mình sao đây !
Đã cam quấn quít má đào,
Những mong chim nhạn mai trao chỉ hồng.
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao Mai.
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đôi ta bắt gặp nhau đây,
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.
Đôi ta như tượng mới tô,
Như chuông mới đúc, như chùa mới xây.
Đôi ta như lửa mới nhen,
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau.
Đôi ta như ruộng năm sào,
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền?
Đôi ta như thể đồng tiền,
Đồng sấp, đồng ngửa, đồng nghiêng, đồng nằm.
Đôi ta như thể con bài,
Đã quyểt thì đánh, đừng nài thấp cao
Đôi ta như đá với dao,
Năng siếc, năng sắc, năng chào, năng quen.
Đôi ta như ngãi Phan Trần,
Khi xa ngàn dặm, khi gần bên đôi.
Đôi ta như rượu với nem,
Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa.
Đôi ta như lúa đòng đòng,
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha
Đôi ta như chỉ xe ba,
Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều.
Đêm nằm lưng chẳng tới giường,
Trông cho mau sáng ra đường gặp em.
Đi ngang thấy ngọn đèn chong chóng,
Thấy em nho nhỏ, muốn bồng mà ru.
Đường dài ngựa chạy biệt tăm,
Người thương có nghĩa trăm năm cũng về.
Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
Vì cam cho quýt đèo bòng,
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng:
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương, ơi hỡi, người thương,
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng.
Đôi ta cùng bạn chăn trâu,
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hang.
Bao giờ cho gạo bén sang,
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh.
Đường xa thì thật là xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó nhỡ lời giao đoan.
Đêm qua trời sáng trăng rằm,
Anh đi qua cửa em nằm không yên.
Mê anh chẳng phải mê tiền,
Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng.
Thấy anh em những mơ màng,
Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi.
Thấy anh chưa kịp ngỏ lời,
Ai ngờ anh đã vội dời gót loan.
Thiếp tôi mê mẩn canh tàn,
Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên.
Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên,
Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày.
Nghĩ rằng duyên nợ từ đây,
Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào.
Cho thiếp tỏ thiệt thấp cao!
Đợi chờ trúc ở với mai,
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.
Đi qua nghiêng nón, cúi lưng,
Anh không chào, em không hỏi, vì chưng đông người.
Đôi ta thương mãi nhớ lâu,
Như sông nhớ nước, như nhành dâu nhớ tằm.
Đấy, đây xứng đáng cũng vừa,
Xin đừng kén chọn lọc lừa nơi nao.
Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía,
Khoai lang ngâm, ngọn mía cũng giâm.
Củi kia chen lẫn với trầm,
Em giữ sao cho khỏi, kẻo lầm, bớ em!
Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,
Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu!
Đại Hoàng phong cảnh hữu tình,
Của nhiều đất rộng gái xinh trai tài.
Đố ai lặn xuống vực sâu,
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa.
Đố ai bắt chạch đằng đuôi,
Bắt chim đầu cánh, bắt người trong trăng.
Đố ai biết đá mấy hòn,
Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm.
Đố ai lượm đá quăng trời,
Đem gầu tát biển, ghẹo người trong trăng.
Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua bằng một, cất bát cơm chăm.
Tháng tư mua nứa đan thuyền,
Tháng năm tháng sáu gặt miền ruộng chiêm.
Đố ai tát bể Đông Khê,
Tát sông Bồ Đề, trăng tròn mấy đêm.
Đông Thành là mẹ là cha,
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô!
Đường lên Mường Lễ bao xa?
Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh.
Đường lên xứ Lạng bao la?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi, đứng lại mà trông,
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ…
Đường về Kiếp Bạc bao xa?
Đường về Kiếp Bạc có cây đa Bồ Đề.
Có yêu anh cắp nón ra về,
Giàu ăn, khó chịu chớ hề thở than.
Đất ta bể bạc, non vàng,
Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết cây mấy tầng.
Đi bộ thì khiếp Hải Vân,
Đi thuyền thì khiếp sóng Thần, hang Dơi.
Yêu nhau cho thịt cho xôi,
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi , Hạ Bì.
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngả Ba Sình.
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh,
Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non.
Đức Thọ gạo trắng nước trong,
Ai về Đức Thọ thong dong con người.
Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát nước trong
Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
Đố anh con rết mấy chân?
Núi Đầu Mâu mấy thước, chợ Hôm mấy người?
Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ nọ em về
Bấy lâu sông cận biển kề
Phân tay mai trúc dầm dề hột châu.
Đống Đa ghi để lại đây,
Bên kia thanh miếu, bên này Bộc am.
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa Lễ phú San đàn Nghĩa thi.
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Con bế con bồng, con dắt, con mang.
Bò đen húc lẫn bò vàng,
Hai con húc chắc, đâm quàng xuống sông.
Thằng bé chạy về bảo ông
”Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi”.
Đàn ông miệng rộng thì tài,
Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng.
Đàn ông nông nổi giếng khơi,
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
Đói thì đầu gối phải bò,
Cái chân hay chạy cái giò hay đi.
Đồng tiền không phấn không hồ,
Sao mà khéo điểm khéo tô mặt người!
Đem chuông đi đấm nước người,
Chẳng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, tách trà ai dâng.
Đói lòng ăn hột chà là,
Để cơm nuôi mẹ , mẹ già yếu răng.
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
Đã sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.
Gái thời trinh tịnh lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai lành gái tốt ra người,
Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng,
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
Em chồng ở với chị dâu,
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày.
Con cô, con cậu thì xa,
Con chú, con bác thật là anh em.
Đói thì ăn ngô, ăn khoai,
Đừng ở với dượng, điếc tai láng giềng.
Đường đi những lách cùng lau,
Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Duyên sao cắc cớ, hỡi duyên!
Cầm gương, gương tối, cầm vàng, vàng phai.
Đừng nài lương giáo khác dòng,
Vốn đều con Lạc cháu Hồng khi xưa.
Đôi ta như cái đòng đòng,
Đẹp duyên, nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.
- Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai.
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.
Đồn rằng quan tướng có danh,
Cưỡi ngựa một mình, chẳng phải vịn ai.
Ban khen rằng:"Ấy mới tài",
Ban cho cái áo với hai đồng tiền.
Đánh giặc thì chạy trước tiên
Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra!
Giặc sợ, giặc chạy về nhà
Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân!
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ.
Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc,
Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân,
Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần,
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Đồng Mười lóng lánh cá tôm,
Muốn ăn bôn súng mắm kho,
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm,
E - Ê[sửa]
Em như hoa gạo trên cây
Anh như một đám cỏ may bên đường.
Lạy trời cho cả gió sương,
Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may.
Em liều một cái bánh bò
Còn nào chót chét,cặp giò chặt hai.
G[sửa]
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay.
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Gánh cực mà đổ lên non,
Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân?
Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa,
Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua.
Gái Thái Bình lòng ngay dạ thẳng,
Trai bạc tình một cẳng về quê.
Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui
Gà khôn gà chẳng đá lang
Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi.
H[sửa]
Hoa thơm ai chẳng muốn đeo,
Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời.
Hoa thơm ai chẳng nâng niu,
Người khôn ai chẳng mến yêu mọi bề.
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em (còn) để làm tin trong nhà.
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.
Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa,
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.
Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,
Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan.
Học trò xứ Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô tát ánh trăng vàng đổ đi
I[sửa]
Ích nước lợi nhà
L[sửa]
Làm trai cho đáng nên trai,
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Làm trai lấy được vợ hiền,
Như cầm đồng tiền mua được của ngon.
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền.
Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.
Anh em Mười Chức công khùng,
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Lênh đênh ba mũi thuyền kề,
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.
Lênh đênh ba bốn thuyền kề,
Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu.
Vì tằm em phải hái dâu,
Vì người lịch sự em ngồi rầu bên nong.
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân?
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Làng tôi có lũy tre xanh,
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Bên bờ vải nhãn hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
M[sửa]
Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tỉnh, cơ đồ lại nên.
Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.
Mẹ già như chuối chín cây,
Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi.
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi, thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa,
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn rồi anh lại nằm,
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền,
Gạo bồ, thóc giống còn phiền nỗi chi.
N[sửa]
Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên đường hay không.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.
Ngoài miệng thì nói Nam mô,
Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm.
Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo,
Nghèo tiền nghèo bạc chả lo là nghèo.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Nam Kì sáu tỉnh em ơi
Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn,
Sông Hương nước chảy trong luôn,
Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Tùng tùng trống đánh ngũ liên,
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.
Người ta rượu sớm trà trưa,
Thân em đi sớm về trưa cả đời.
Lạy trời ứng nghiệm một lời,
Cho em gặp được một người em thương.
Người ta bán vạn mua ngàn,
Thân em buôn bán cơ hàn vẫn vui.
Người ta đi đôi về đôi,
Thân em đi lẻ về côi một mình.
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương!
Nói chín thì nên làm mười
Nói mười làm chín kẻ cười người chê.
*Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
:Trong trời trông đất trông mây
Trong mưa trông nắng trông ngày trông đêm
:Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
O - Ô - Ơ[sửa]
Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Ớt nào mà ớt chẳng cay,
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Ở sao vừa được lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê
P[sửa]
Phượng hoàng ở chốn cheo leo,
Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
Bao giờ gió thuận mưa hòa,
Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.
Phải duyên phải kiếp thì theo,
Cám còn ăn được, nữa bèo như anh.
Phấn son tô điểm sơn hà,
Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam.
Phong lưu là cạm ở đời,
Hồng nhan là bẫy những người tài hoa.
Phượng hoàng đậu nhánh vông nem,
Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi.
Ngã tư Chợ Gạo nước hồi,
Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai.
Q[sửa]
Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, ngả sầu bấy nhiêu.
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Quảng Nam có núi ngũ hành,
Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.
Quan văn mất một đồng tiền,
Xem bằng quan võ mất quyền quận công.
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Lấy anh từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con với chàng.
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Tiền gạo thì của mẹ cha,
Cái nghiên, cái bút thật là của em.
Quân tử là quân tử Tàu,
Ăn cơm thì ít, ăn rau thì nhiều.
R[sửa]
Ra đi là sự đã liều,
Nắng mai phố lạ, mưa chiều thôn xưa.
Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Rủ nhau xuống bể mò cua,
Đem về nấu quả me chua trên rừng.
Em ơi chua, ngọt đã từng,
Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau.
Ruộng đồng mặc sức chim bay,
Nước sông lai láng cá bầy đua bơi.
Rừng có mạch, vách có tai,
Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Ra đi ngó trước ngó sau,
Ngó nhà thấy cột, ngó nhau thấy buồn.
Ra đường bà nọ bà kia,
Về nhà không khỏi cái nia cái sàng.
Ra đường võng lộng nghêng ngang,
Về nhà hỏi vợ cơm rang đâu rồi ?
Ra sông mới biết cạn sâu,
Ở trong lạch hói, biết đâu mà dò.
Ra về bụng nhớ người thương,
Tay vỗ thanh giường chép miệng thở than!
Ra về ruột nọ quặn đau
Nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi.
Rau muống bắt cuống rau răm,
Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay.
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng,
Dù thương cho lắm cũng chồng người ta.
Rau răm hái ngọn còn tươi,
Lạng nghe anh nói mấy lời mà cay.
Kể chi những chuyện trước đây,
Lòng em tưởng những núi này, non kia.
Rèm xưa ba bức mành manh,
Mắt cô thế ấy tu hành được đâu.
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người quân tử lạc loài tới đây.
Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi.
Ru con con ngủ cho rồi,
Mẹ ra chỗ vắng, mẹ ngồi than thân.
Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp, đừng chờ uổng công.
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Rượu nằm trong nhạo chờ nem,
Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình.
Rừng như biển thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra.
S[sửa]
Số giàu đem đến dửng dưng,
Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
Số giàu tay trắng cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Sông sâu có thể bắc cầu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.
Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy,
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng,
Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang,
Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa?
Sài Gòn có bến Chương Dương,
Có dinh Độc Lập có đường Tự Do.
T[sửa]
Thời giờ ngựa chạy, tên bay,
Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm.
Đông qua Xuân lại đến liền,
Hè về rực rỡ, êm đềm Thu sang.
Giờ con chăm học, chăm làm,
Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời.
Nước nhà mong đợi con ơi,
Hãy luôn ghi nhớ những lời thầy khuyên.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa.
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Tay bưng dĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày.
Thôi thà đừng biết cho xong,
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Tròng trành như nón không quay,
Như thuyền không lái như ai không chồng.
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như mảnh gỗ long đinh.
Gỗ long đinh anh còn chữa được,
Chớ không chồng chạy ngược chạy xuôi,
Không chồng khổ lắm chị em ơi!
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền. (khăng khăng đợi thuyền.)
Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục, lại vần than rơm.
Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
Tóc mai sợi vắn sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.
Trách ai tính chuyện đa đoan,
Đã hái được mận lại toan bẻ đào.
Trách người quân tử vô danh,
Chơi hoa xong lại bẻ cành bán rao.
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Thân tui thui thủi một mình,
Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng,
Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.
Thức khuya mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.
- Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu co người nào nghe.
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như cá giữa rào,
Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai?
Thân em như cam quýt bưởi bòng
Ngoài tuy cay đắng trong lòng ngọt ngon.
Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay.
Thân em như ớt chín cây,
Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng.
Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Thân em như miếng cau khô,
Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày.
Thân em như chiếc chổi đầu hè,
Để anh khuya sớm đi về chùi chân.
Thân em như cái cọc rào,
Mọt thì anh đổi, cớ sao anh phiền.
Thân em như cái sập vàng,
Anh như manh chiếu rách giữa đàng bỏ quên.
Lạy trời cho gió cả lên,
Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng.
Thân em như trái xoài trên cây,
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,
Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành,
Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai?
Thân em như rau muống dưới hồ,
Nay chìm mai nổi biết ngày mô cho thành?
Thân em như đóa hoa rơi,
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?
Thân em như cánh hoa hồng,
Lấy phải thằng chồng như đống cỏ khô.
Thân em như cá trong lờ,
Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu.
Thân em đi lấy chồng chung,
Khác nào như cái bung xung chui đầu.
Thân em như quả dưa tây,
Lâu lâu anh bóp cho lây nỗi buồn.
Thân em như thể cánh bèo,
Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi.
Thân em vất vả trăm bề,
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu.
Có lược chẳng kịp chải đầu,
Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn.
Thân em như cột đình trung,
Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.
Thân em như cúc mọc bờ rào,
Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông.
Thân em như miếng bánh xèo,
Nằm trong chạn bếp... biết mèo nào tha.
Thân em như tấm lụa điều,
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương.
Thân em như cá trong bồn,
Không ăn có chịu, tiếng đồn oan chưa!
Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn quân canh.
Thân anh như thể cái chày,
Bỏ lăn bỏ lóc chờ ngày dộng chuông.
Thân em chẳng đáng mấy tiền,
Vì tình em nặng, mấy nghìn cũng mua.
Thân em như mấy củ khoai,
Sáng sáng anh đói, anh nhai đỡ lòng.
Thân em như cỏ ngoài đồng,
Buồn thì anh nhổ, anh trồng rau răm.
Thân em như cánh chuồn chuồn,
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
Thân em như giọt nắng xuân,
Mơ vào cửa phủ thấm vần thơ anh.
Thanh Trì có bánh cuốn ngon,
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng.
Thanh Trì cảnh đẹp người đông,
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Trầu Bà Điểm xé ra nửa lá,
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi,
Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
Hay là anh quyết ở đời với em?
Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.
Thương thay cây quê giữa rừng,
Cay nồng ai biết, ngát lừng ai hay.
Thương thay thân phận đàn bà,
Hơn hai, ba tuổi vẫn là đàn em.
Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bã,
Thuốc Đồng Môn thuốc hút phà hơi.
Trầu nồng thuốc thắm ai ơi,
Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi, ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ, thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gàu giai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bây giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.G
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa đem về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Thằng Sang nói chuyện lung tung
Thằng Trung nói chuyện mọi người dễ nghe
thằng Sang như con chó đẻ
Nó ngu hơn cả thằng điên giữa đường
U[sửa]
Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ
Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.
Ước gì anh hóa ra gương,
Để cho em cứ ngày thường em soi.
Ước gì anh hóa ra cơi,
Để cho em đựng cau tươi trầu vàng.
Uốn tre uốn thuở còn măng,
Dạy vợ dạy thuở băn khoăn mới về.
Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu trải gấm cho chàng sang chơi.
V[sửa]
Về ăn bánh đúc lá đa,
Người ơi người hỡi công cha ngày ngày.
Văn chương đựng không đầy lá mít,
Võ thì đá không bể nổi mảnh sành,
Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi.
Bảng đề không biết chữ chi,
Mài nghiên, mút bút có khi hết ngày.
Ví dầu dượng cháu người dưng,
Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời.
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ, học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa chín đầy đồng,
Gặp về đập sảy bõ công cấy cày.
X[sửa]
Xa xôi em chớ ngại ngùng,
Xa người, xa tiếng nhưng lòng không xa.
Xấu xa cũng thế chồng ta,
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
Y[sửa]
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Yêu nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau cởi áo trao nhau,
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
Yêu nhau củ ấu cũng tròn,
Ghét nhau thì củ bồ hòn cũng vuông.
Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Những bài ca dao khác[sửa]
- Tiền trao cháo múc
Không tiền cháo trút trở ra
Tin nhau buôn bán cùng phịch nhau
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời
Thay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền
Mẹ già như chuối ba hương,
Như cơm nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.
Ba hương lây lất tháng ngày,
Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.
Mẹ già như áng mây trôi,
Như sương trên cỏ, như lời hát ru.
Lời hát ru vi vu trong gió,
Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan.
Mây trôi lãng đãng trên ngàn,
Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.
Xem tiếp[sửa]
- Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước
- Ca dao Việt Nam về tình yêu quê hương, đất nước, con người
- Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội
- Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình
Cần Thơ là tỉnh,
Cao Lãnh là quê,
Anh đi lục tỉnh bốn bề,
Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.
- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,
Anh có thương em, xin sắm một con đò, Để em qua lại mua cò gởi thơ.
- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em, cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.
- Con trai trong Quảng ra thi,
Thấy con gái Huế chân đi không đành.
- Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
- Chỉ điều xe tám, đậu tư,
Anh đi Gia Định thư từ cho em.
- Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Chợ Sài Gòn cẩn đá
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
Giã em xứ sở vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Việt Nam là một vùng quê của những truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa. Trong suốt quá trình phát triển của một nghìn năm lịch sử, trong đời sống sinh hoạt lâu đời của người dân, không chỉ những phong tục tập quán, những bản sắc văn hóa mang dấu ấn của Việt Nam được hình thành mà những trò chơi dân gian cũng vô cùng phong phú và độc đáo, những trò chơi này cũng góp phần thể hiện được những nét đẹp về văn hóa cũng như những nét đẹp về tinh thần, tâm hồn của con người Việt Nam. Một trong những trò chơi dân gian tiêu biểu mà ta có thể kể đến, đó chính là trò chơi thả diều.
Thả diều là một trò chơi dân gian độc đáo của con người Việt Nam, trò chơi này được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam. Xuất hiện từ rất sớm và trò chơi độc đáo này vẫn được duy trì và phát triển cho đến tận ngày hôm nay. Khi xưa, cùng với nhịp độ của cuộc sống sinh hoạt thường ngày, ông cha ta không chỉ lo lao động, làm ăn sinh sống mà còn rất chú trọng đến đời sống tinh thần của mình, mà cụ thể nhất có thể kể đến, đó chính là sự sáng tạo các trò chơi dân gian, một trong số đó là thả diều. Đây là cách thức giải trí độc đáo của ông cha ta sau mỗi giờ lao động đầy mệt mỏi, là cách lấy lại sức lực sau những lo toan của cuộc sống, của áp lực cơm – áo – gạo – tiền.
Thả diều là trò chơi mà trong đó người chơi sẽ dựa vào sức gió của tự nhiên, đưa những cánh diều bay lên cao, sự kết nối của người chơi đối với con diều là thông qua một sợi dây dù đủ dài để đưa con diều bay lên tận trời xanh. Sợi dây sẽ giúp con người điều khiển con diều của mình bay đến độ cao nào hay bay đến nơi nào mình mong muốn. Khi thu diều lại thì người chơi cũng cuộn từ từ sợi dây dù này lại, con diều sẽ gần mặt đất hơn, và cuối cùng sẽ hạ cánh để được người chơi xếp lại, mang về nhà. Nguyên lí sử dụng của các con diều này là dựa vào sức gió. Vì vậy mà hôm nào trời không có gió thì không thể chơi thả diều.
Nhưng nếu trời có gió nhưng người chơi không có kĩ năng thả, không biết cách đưa con diều bay ngược chiều gió để lên không trung thì con diều cũng không bay được như mong muốn của chúng ta. Về cấu tạo của chiếc diều thì bao gồm phần khung diều, thường thì những phần khung diều này sẽ được làm bằng tre hoặc bằng gỗ, đây là phần chống đỡ cho con diều, giúp con diều có những hình dáng nhất định và có thể bay lên. Những chiếc tre hay gỗ dùng để làm khung diều này phải thật mảnh, dẻo dai bởi nếu quá nặng, to thì sẽ làm cho con diều trở nên nặng nề, từ đó khó có thể bay lên, hoặc bay được nhưng cũng không cao. Còn nếu như phần khung này có mềm, không có độ dẻo dai thì khi có gió lớn thì con diều sẽ bị gió thổi làm cho gãy khung.
Bộ phận thứ hai của diều đó là phần nguyên liệu phụ để trang trí cho con diều cũng là bộ phận giúp con diều có thể đón được gió và bay lên cao. Thông thường, phần áo diều này thường được làm bằng giấy báo, vải mỏng hoặc có thể bằng ni lông. Ngày nay, sự phát triển của đời sống tinh thần đã đòi hỏi tính thẩm mĩ cao hơn, do đó mà những con diều được trang trí với những màu sắc vô cùng bắt mắt, hình dáng con thuyền cũng được chế tạo thành nhiều kiểu khác nhau, có thể là diều hình con chim, con bươm bướm, chim phượng hoàng... Bộ phận không thể thiếu đó chính là dây dù. Dây dù buộc vào con diều để những người chơi có thể điều khiển con diều, nâng lên hay hạ xuống theo ý thích của mình, dây dù có thể làm bằng những sợi dây gai mỏng nhưng có độ bền cao, độ dài của dây này cũng từ tám đến mười mét.
Những con diều thường được mang đi thả vào những buổi chiều có gió, nhưng gió này chỉ vừa đủ để diều bay lên, không quá lớn, bởi nếu vậy con diều sẽ bị gió thổi cuốn đi mất. Thời điểm người ta đi thả diều đông nhất, đó chính là tầm chiều tà, vì lúc này thời tiết sẽ rất mát mẻ, lại có gió. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, cứ buổi chiều đến là mọi người sẽ tụ tập nhau lại đến một khu đất trống, hút gió để cùng nhau thả diều. Hình ảnh những cậu bé chăn trâu thổi sáo, thả diều có lẽ đã quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Sự sáng tạo của con người là không có giới hạn, cùng là con diều dùng để thả nhưng người ta có thể tạo cho nó rất nhiều màu sắc, hình dáng, thậm chí những con diều này còn phát ra những âm thanh du dương, êm ái. Con diều này được người ta gọi là diều sáo, theo đó thì những chiếc sáo nhỏ được thiết kế đặc biệt sẽ gắn lên thân của mỗi con diều. Để khi diều bay lên cao, có gió thì những con diều này sẽ tự động phát ra tiếng sáo.
Trò chơi thả diều là một trò chơi dân gian đã có từ rất lâu đời, người ta có thể chơi thả diều vào những lúc rảnh rỗi, giúp giải tỏa những căng thẳng sau những giờ làm việc mệt mỏi. Đặc biệt, ngày nay diều vẫn thu hút đông đảo sự yêu thích của rất nhiều người, hàng năm vẫn có rất nhiều các hội thi thả diều lớn được tổ chức, được rất nhiều người lựa chọn, tham gia.
Mễ Sở, ngày 29 tháng 1 năm 2020
Kính gửi bạn: Thiều Quang Hùng.
Mình tên là Nam, rất vui khi được bạn viết lá thư gửi mình để hỏi mình về tình hình thế giới chúng ta.
Bạn cũng biết, chúng ta đang sống trên một nơi được gọi là trái đất hay còn gọi khác là hành tinh xanh. Cái tên này sẽ không còn giữ được bao lâu nữa, vì trái đất của chúng ta đang dần bị hủy hoại bởi những con người như chúng ta đây. Những vụ cháy rừng, chặt phá rừng đang dần dần nghiệm trọng, những bờ biển xanh đang chứa nhiều rác dần, và hơn thế nữa, rất nhiều người không biết cách để trồng lại rừng và nhặt rác bảo vệ môi trường, họ coi môi trường như nhà của họ, thích làm gì thì làm.
Ngày nay cũng đã có nhiều hoạt động, tổ chức nhằm kêu gọi bảo vệ môi trường, họ cũng đã có rất nhiều biện pháp để bảo vệ rừng vàng biển bạc của chúng ta. Tuy rằng như thế nhưng vẫn chưa đủ để có thể bảo vệ hoàn toàn được môi trường. Và nếu ở địa phương bạn có những nơi nào bị ô nhiễm thì hãy kêu gọi mọi người ngăn chặn hành vi xả rác bừa bãi và làm sạch môi trường ngày từ bây giờ. Vì bảo mệ môi trườnh là trách nhiệm của mỗi người dân trên toàn thế giới. Vì lợi ích của chúng ta, hãy bảo vệ thế giới ngày từ bây giờ, ít nhất là địa phương.
# Học tốt #
- Câu ca dao khuyên dạy chúng ta: Con người dù không chung huyết thống, máu mủ nhưng khi đã ở cùng trên một đất nước thì đều phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
Trong kho tàng ca dao, dân ca tục ngữ Việt Nam có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ hay đúc kết kinh nghiệm của ông cha ta về các vấn đề của đời sống xã hội, hay để lại những bài học quý báu cho đời sau. Một trong số đó là câu tục ngữ: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Tuy chỉ có hai câu, nhưng câu tục ngữ này đã mang đến cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc về tình đoàn kết, gắn bó giữa mọi người trong cùng một quốc gia, dân tộc.
Câu tục ngữ có hai lớp nghĩa, xét về nghĩa đen là lớp nghĩa bao quát bên ngoài, hiện lên trong từng con chữ trong câu. Đó là tấm nhiễu điều được phủ lên giá gương có tác dụng giúp cho giá của cái gương nói riêng và toàn bộ cái gương nói chung luôn được sạch sẽ, sáng bóng và bền đẹp từ đó ta có thể hiểu về nghĩa bóng của câu tục ngữ đó là lớp nghĩa và người đọc phải suy luận ra dựa vào lớp nghĩa đen. Đó là người trong cùng một quốc gia dân tộc phải biết đoàn kết, yêu thương lẫn nhau “người trong một nước phải thương nhau cùng”, cũng như tấm nhiễu điều và giá gương gắn bó khăng khít với nhau không thể tách rời, nếu mất tấm nhiễu điều, tấm gương sẽ không còn được bền đẹp nữa. Từ đó ta suy rộng ra về con người, mọi người phải giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau thì mới tạo ra sức mạnh như chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già của cả dân tộc Việt Nam đã từng nói: “Một cây làm chẳng nên non/ ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay một câu khác cũng có ý nghĩa tương tự đó là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Qua đây, ta mới có thể hiểu sự yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau có ý nghĩa to lớn đến như thế nào?. Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong những ngày đầu sau năm 1945, nước ta phải cùng một lúc đương đầu với nhiều loại giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chính Bác Hồ của chúng ta đã phát động phong trào “Hũ gạo cứu đói” với khẩu hiệu “Một nắm khi đói bằng một gói khi no”. Phong trào được mọi người hưởng ứng tham gia rất nhiệt tình, đây chính là một minh chứng rõ nhất cho sự gắn bó đùm bọc của dân tộc ta, để từ đó với lòng yêu nước nồng nàn ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược và giành lại được độc lập dân tộc.
Ngày nay, câu tục ngữ vẫn còn nguyên ý nghĩa được thể hiện ở nhiều phong trào như: Chung tay góp sức hướng về mảnh đất miền Trung – mảnh đất thường xuyên hứng chịu những hậu quả nặng nề của thiên tai. Hay nhiều chương trình truyền hình ý nghĩa như chương trình “Trái tim cho em” với nội dung là gây quỹ giúp đỡ những trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh và nhiều chương trình khác.
Bây giờ và mãi mãi về sau, câu tục ngữ vẫn còn nguyên giá trị vốn có của nó, đem đến cho mọi người một bài học quý báu về tình đoàn kết, sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa người với người trong cùng một dân tộc. Đây chính là sức mạnh to lớn để giúp đất nước chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và ngày càng giàu đẹp.
Trong văn đàn Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng được đồng nghiệp và bạn đọc ưu ái gọi bằng một "danh hiệu": Nhà văn của phụ nữ và trẻ em.
Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.
Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).
Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Văn bản Trong lòng mẹ được trích từ tập hồi kí Những ngày thơ ấu. Hồi kí là một thể thuộc loại kí, nhằm ghi những sự việc thuộc quá khứ, qua sự nhớ lại. Hồi kí đòi hỏi phải hết sức tôn trọng tính chân thực của câu chuyện; sự việc, số liệu, thời gian phải chính xác. Bởi thế, tác phẩm được coi là thiên truyện kể về tuổi thơ cay đắng của chính tác giả. Đó là cả một quãng đời cơ cực mồ côi cha, không được sống với mẹ mà phải sống với người cô độc ác được tái hiện lại sinh động. Chính tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu tha thiết đối với mẹ đã giúp chú bé vượt qua giọng lưỡi xúc xiểm độc ác của người cô cùng với những dư luận không mấy tốt đẹp về người mẹ tội nghiệp. Đặc biệt, đoạn truyện tả cảnh đoàn tụ giữa hai mẹ con là một đoạn văn thấm đẫm tình cảm và thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo. Nó góp phần lí giải tại sao Nguyên Hồng được trân trọng gọi là "nhà văn của phụ nữ và trẻ em".
Ngô Tất Tố, người huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội – VPT), đã từng dùng những bút danh Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Căn, v.v… sinh ra trong một gia đình nho học thanh bần.
Năm 1914 ông bắt đầu hoạt động sáng tác, dịch sách, viết bài cho báo chí, đã công bố nhiều tác phẩm văn chương có tính tư tưởng khá mạnh trên rất nhiều báo tạp chí tiến bộ, vì thế bị mật thám của chính quyền thống trị thực dân Pháp bí mật giám thị, theo dõi.
Năm 1946, nhà văn Ngô Tất Tố tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia hoạt động văn nghệ cách mạng, tiến hành sáng tác văn học với nhiều loại đề tài.
Tác phẩm chủ yếu có: Tiểu thuyết “Tắt đèn”, “Lểu chõng”; Phóng sự “Việc làng"; Tác phẩm nghiên cứu “Văn học Việt Nam”, “Lão Tử”, “Mặc Tử”; Tác phẩm dịch “Thơ Đường”, v.v…
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc, có sở trường về sáng tác đề tài nông thôn. Tác phẩm của ông đã bóc trần không thương tiếc bộ mặt xấu xa, hung bạo tàn ác của bọn địa chủ cường hào phong kiến, đồng tình vô hạn đối với nông dân nghèo khổ. Tác giả khéo léo vận dụng ngôn ngữ đại chúng hoá, bình dân dễ hiểu.
Nam cao là con người duy nhất trong gia đình khá đông con - được ăn học tử tế. Học xong bậc thành chung, nam cao vào sài gòn giúp việc cho một hiệu may. Thời kì này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước được đi xa để mở mang kiến thức, trau dồi tài năng, xây dựng một sự nghiệp văn học có ích. Nhưng rồi vì ốm yếu, nam cao lại trở về quê, và thất nghiệp. Sau ông lên hà nội, dạy học ở một trường tiểu học tư thục, vùng bưởi, ngoại ô. Nhưng cuộc đời "giáo khổ trường tư" đó cũng không yên: quân nhật vào đông dương, trường của ông phải đóng cửa để làm chuồng ngựa cho lính nhật. Nhà văn lại thất nghiệp, sống lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư, trong khi gia đình ở quê đang ngày càng khốn khó. Năm 1943, nam cao tham gia hội văn hóa cứu quốc do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Bị khủng bố gắt gao, ông về hẳn làng quê rồi tham gia cướp chính quyền ở địa phương và được bầu làm chủ tịch đầu tiên ở xã. Nhưng ngay sau đó ông được điều động lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc tại hà nội. Ông đã đi cùng đoàn quân nam tiến vào vùng nam trung bộ đang kháng chiến năm 1946. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12 - 1946), nam cao về làm công tác tuyên truyền ỏ' tỉnh hà nam; từ 1947, ông công tác ở ngành tuyên truyền, văn nghệ việt bắc, chủ yếu viết báo cáo cứu quốc, văn nghệ. Năm 1950, nam cao đã tham gia chiến dịch biên giới. Truyện ngắn đôi mắt (1948), nhật kí ở rừng (1948), tập kí sự chuyện biên giới (1950) của nam cao đều là những sáng tác đặc sắc, tiêu biểu của truyện, kí kháng chiến lúc bấy giờ. Tháng 11 - 1951, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch thuộc liên khu iii, nam cao đã bị địch phục kích bắt được và bắn chết gần hoàng đan (thuộc tỉnh ninh bình khi đó). Nhà văn ngã xuống giữa lúc ông đang bước vào thời kì "chín" về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc về thời đại mới.
Trước cách mạng, nam cao thường mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó không chỉ là tâm sự người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (thơ tản đà), mà còn là nỗi bi phẫn sâu xa của người trí thức giàu tâm huyết trước cái xã hội bóp nghẹt sự sống con người khi đó. Song nam cao không vì bất mãn cá nhân mà trở nên khinh bạc, trái lại ông có một tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Đặc biệt, sự gắn bó ân tình sâu nặng với bà con nông dân nghèo khổ ruột thịt ở quê hương là nét nổi bật ở nam cao. Chính tình cảm yêu thương gắn bó đó là một sức mạnh bên trong của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát li hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung thành với con đường nghệ thuật hiện thực "vị nhân sinh".
Bình sinh, nam cao thường day dứt, hối hận vì những sai lầm - có khi chỉ trong ý nghĩ - của mình. Người trí thức "trung thực vô ngần" (lời tô hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình, cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới "tâm hồn trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp" (nhật kí nam cao, ghi ngày 31 - 8 - 1950). Có thể nói, giá trị to lớn của sự nghiệp văn học của nam cao gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, dũng cảm trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.
Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lí tưởng nhân đạo, lí tưởng cách mạng và sự hi sinh anh dũng của nam cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn - chiến sĩ.