K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 8 2021

tui ở nhà mà vẫn bị F2

19 tháng 8 2021

Con người sinh ra trên trái đất với khát vọng lớn lao là tạo dựng và tận hưởng hạnh phúc. Vì vậy, dù trong hoàn cảnh nào thì khát vọng này của con người vẫn cháy lên mạnh mẽ. Khi dịch Covid-19 đang hoành hành ở nhiều nơi trên trái đất, con người vẫn tìm cách thể hiện khát vọng hạnh phúc của mình. Lúc này, quan niệm và cảm nhận hạnh phúc có khác với bình thường - hạnh phúc được hiểu sâu hơn, rộng hơn, gần gũi hơn với thực tế cuộc sống. Hạnh phúc lúc này không phải là nụ cười tươi rói bên những bông hoa với màu sắc rực rỡ, mà là sự trầm tĩnh, tỉnh táo để đương đầu với những thử thách khốc liệt. EM rất vui vì ko phải lao động mệt nhọc như các cô bác sĩ phải lao động chân tay ngày đêm đẩy lùi co-vid .

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:“Nhà” đối với những người xa quê hương chính là cái dải đất hình chữ S nhỏ nhắn bên bờ biển Đông, và đối với những phi hành gia làm việc trên trạm không gian, nhà có thể chính là viên ngọc xanh tuyệt đẹp ngoài vũ trụ kia đang quay rất chậm.“Nhà” cũng có thể là tình yêu của một ai đó dành cho ta, là trái tim ấm áp của một ai đó, nơi mà ta...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Nhà” đối với những người xa quê hương chính là cái dải đất hình chữ S nhỏ nhắn bên bờ biển Đông, và đối với những phi hành gia làm việc trên trạm không gian, nhà có thể chính là viên ngọc xanh tuyệt đẹp ngoài vũ trụ kia đang quay rất chậm.

“Nhà” cũng có thể là tình yêu của một ai đó dành cho ta, là trái tim ấm áp của một ai đó, nơi mà ta luôn ao ước được chạy đến náu mình. Để tìm lại sự bình yên.

“Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nó không đồng nghĩa với sự bình yên, nhưng chúng ta vẫn luôn khao khát rằng nó gắn với sự bình yên. Và khi nào “nhà” trái nghĩa với bình yên thì đó là khởi đầu của sự bất hạnh.

Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có lúc đồng nghĩa với niềm vui và cả sự bình yên. Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên của nhà không phải là điều có sẵn. “Nhà” là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là phần cứng, còn tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm.

                                                                                                                               (Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân)

1. Xác định phương thức biểu đạt được sử dụng chủ yếu trong đoạn văn bản trên ?

2. Em hiểu hình ảnh ẩn dụ “viên ngọc xanh tuyệt đẹp ngoài vũ trụ kia đang quay rất chậm” có nghĩa là gì?

3. Tại sao tác giả lại nói: “Và khi nào “nhà” trái nghĩa với bình yên thì đó là khởi đầu của sự bất hạnh.”?

4.Qua câu văn “Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có lúc đồng nghĩa với niềm vui và cả sự bình yên. Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên của nhà không phải là điều có sẵn. “Nhà” là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là phần cứng, còn tình yêu và sự thấu hiểu là phần mềm” tác giả muốn nói với chúng ta điều gì? Bản thân em cần làm gì để giữ gìn niềm vui và sự bình yên cho ngôi nhà của mình

0
PHẦN I (6 điểm): Mở đầu bài thơ “ Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu viết  Khi con tu hú gọi bầy    Câu 1 : Chép chính xác chín câu còn lại để hoàn thành bài thơ.   Câu 2: Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Theo em, vì sao tiếng chim tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ như vậy?    Câu 3. Cho câu chủ đề:      Bốn câu cuối bài thơ “Khi con tu hú”  là bức...
Đọc tiếp

PHẦN I (6 điểm): Mở đầu bài thơ “ Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu viết  

Khi con tu hú gọi bầy

 

  Câu 1 : Chép chính xác chín câu còn lại để hoàn thành bài thơ. 

  Câu 2: Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Theo em, vì sao tiếng chim tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ như vậy?    Câu 3. Cho câu chủ đề: 

     Bốn câu cuối bài thơ “Khi con tu hú”  là bức tranh tâm trạng chân thực và cảm động của nhà thơ Tố Hữu

      Hãy viết đoạn văn tổng phân hợp (khoảng 12 câu) để làm rõ câu chủ đề trên. Trong đoạn có sử dụng hợp lý một câu cảm thán, một câu phủ định (gạch chân, chú thích rõ).

PHẦN II (4 điểm): Cho đoạn thơ sau: “ Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu ?

Giấy đỏ buồn không thắm;

Mực đọng trong nghiên sầu…”

           (Trích “ Ông đồ”, Ngữ văn 8, tập II, NXB Giáo Dục VN)

  Câu 1.  Nêu phương thức biểu đạt của đoạn thơ trên

  Câu 2.  Trong hai câu thơ “ Giấy đỏ buồn không thắm; / Mực đọng trong nghiên sầu…” tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó?

 Câu 3. Từ những vần thơ cảm động, sâu lắng trong bài “ Ông đồ”, hãy viết đoạn văn nghị luận (dài khoảng 2/3 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về vai trò của việc giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc trong thời đại ngày nay. 

0

Có ai đó đã từng nói rằng: Sự khác biệt giữa những người thành công và những người thất bại không phải là ở sức mạnh, kiến thức hay sự hiểu biết – mà chính là ở ý chí. Có thể thấy, ý chí có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Ý chí giúp chúng ta biết vượt qua giông tố của cuộc đời, chinh phục khó khăn thử thách và biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Gặp gỡ tư tưởng với câu nói trên, cũng đã có ý kiến cho rằng: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”.

Trước hết, chúng ta hãy cùng tìm hiểu ý kiến: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” có nghĩa là gì. Ý chí là à khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục mọi khó khăn nhằm đạt mục đích đó. Còn “con đường” là gì? Chúng ta có thể hiểu nó theo nhiều cách, con đường đó có thể là đường dẫn đến mục tiêu, lí tưởng, con đường dẫn đến tương lai, con đường dẫn đến thành công,… Và dù chúng ta hiểu nó như thế nào thì trên mỗi con đường ấy đều có sự hiện diện của ý chí và nghị lực. Bằng cách diễn đạt ngắn gọn, câu nói Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”   muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: trong cuộc sống có vô vàn những khó khăn, thách thức đang đón chờ chúng ta ở phía trước nhưng nếu chúng ta có ý chí, nghị lực thì chắc chắn chúng ta đều sẽ tìm thấy con đường dẫn đến thành công.

Vậy tại sao chúng ta cần có ý chí? Trước hết, chúng ta đều biết rằng, con đường dẫn đến thành công và hạnh phúc không hề bằng phẳng và trái lại, có đầy những chông gai thử thách. Để có thể vượt qua khó khăn, thử thách ấy, chúng ta cần có ý chí. Ý chí sẽ giúp chúng ta có nghị lực kiên cường, lòng quyết tâm sắt đá, lòng dũng cảm để đạp đổ mọi khó khăn thử thách ấy. Mỗi lần trải qua khó khăn thử thách ấy, hẳn bạn sẽ thấy mình trưởng thành hơn. Hơn nữa, không phải lúc nào, chúng ta cũng có thể quật đổ những gian nan, thách thức kia. Đôi khi, chúng ta sẽ vấp ngã và thất bại. Đó có thể là những cú vấp ngã rất đau đớn nhưng đừng vội bỏ cuộc. Hãy nghỉ ngơi, dừng chân, từ từ nhen nhóm ngọn lửa của ý chí, đứng dậy, và tiếp tục vững vước tiếp. Mỗi một lần chúng ta can đảm đối mặt với khó khăn thử thách là một lần chúng ta lại được tôi luyện bản thân mình. Từ đó, chúng ta học hỏi được nhiều kinh nghiệm sống để có thể giải quyết khó khăn một cách dễ dàng hơn. Như vậy, chúng ta đều thấy rằng:  : ý chí có vai trò quan trọng trong cuộc sống. Ý chí giúp chúng ta vượt qua khó khăn, chinh phục thử thách; ý chí là chìa khóa để mở ta con đường thành công. Nếu thiếu đi ý chí tức là chúng ta đã chịu đầu hàng trước khó khăn thử thách, mặc cảm cho số phận quyết định bản thân mình. Dần dần, chúng ta sẽ bị rơi vào thất bạn. Trong cuộc sống, đã có rất nhiều tấm gương vượt qua nghịch cảnh, khó khăn nhờ vào ý chí, nghị lực. Những trang sách Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường đã ghi lại nhiều những cái tên, dấu ấn của con người trẻ tuổi nhờ vào ý chí, nghị lực mà chinh phục mọi khó khăn, đặt trên đến đỉnh thành công. Điển hình trong số đó, phải kể đến người anh hùng của thời đại Nick Vuijic.  Sinh ra đã không có tứ chi, phải đối mặt với sự chế giễu của những người xung quanh, anh rơi vào trầm cảm và có ý định từ bỏ cuộc sống. Thế rồi anh nhận ra rằng, trên thế giới này, còn rất nhiều người khác chịu thiệt thòi giống mình, anh dần chấp nhận khuyết tật của bản thân và có suy nghĩ vô cùng tích cực rằng: “Chúa tạo ra tôi ắt phải có dụng ý nào đó và sẽ không để tôi mãi mãi trở nên vô dụng”,…” tôi được sinh ra không phải vì sự trừng phạt của Chúa mà vì sự sáng tạo của Người để hiện lộ những công việc đặc biệt của Người qua tôi”. Nhờ suy nghĩ tích cực, Nick đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng kép và trờ thành nhà diễn thuyếy, tuyên truyền động lực và đại sứ truyền cảm hứng sống nổi tiếng trên thế giới. Hay chúng ta cũng có thể kể đến nhà soạn nhạc đại tài: Ludwig Van Beethoven, một con người đã dũng cảm vượi qua nỗi đau mất đi thính giác, một con người đã tạo nên những kiệt tác khiến cả thể giới phải ngưỡng mộ.

Như vậy, tất cả chúng ta đều thấy rằng, nếu có ý chí, không một khó khăn, thách thức nào có thể cản bước. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay, có ít người nhận thức rõ về diều này. Bên cạnh những con người sống có ý chí, nghị lực, chị khó tôi rèn bản thân mình trong khó khăn thách thức thì lại có những con người sống thiếu ý chí. Họ mới chỉ vấp phải một chút thất bại mà đã bỏ cuộc, để mặc cho số phận quyết định. Đó là kiểu sống tầm thường, vô giá trị và không có ý nghĩa.

Mặc dù,  ý chí là giúp chúng ta bước đến đỉnh thành công một cách nhanh nhất nhưng nếu chỉ ý chí, nghị lực thôi thì chưa đủ. Con đường đến thành công đòi hỏi rất nhiều thứ. Muốn thành công, chúng ta cũng cần có hoài bão, ước mơ, lí tưởng sống. Thêm nữa, chúng ta cũng cần trau dồi vốn kiến thức, vốn sống, tích lũy kinh nghiệm sống từ người khác, học hỏi người khác. Khi chúng ta có được những kĩ năng sống cần thiết như vậy, cùng với ngọn lửa của ý chí, nghị lực, chắc chắn chúng ta đều có thể đạt được thành công.

Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường

Nhà văn Nguyễn Bá Học đã từng khẳng định: Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Nếu chúng ta dũng cảm, có ý chí, nghị lực thì chẳng sông núi nào có thể cản bước được chúng ta cả. Đó cũng là thông điệp của câu nói “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”. Đó không đơn thuần chỉ là một câu nói nhắn nhủ với chúng ta về việc sống phải có ý chí và nghị lực mà nó còn được chọn làm tên của một cuốn sách với đầy niềm cảm hứng mới mẻ. Nếu bạn chưa tìm được ngọn lửa sống của mình, tôi khuyên bạn nên tìm đọc mua cuốn sách này bởi trong đó chứa rất nhiều câu chuyện sẽ giúp bạn có thêm ý chí, động lực sống để vững bước trên con đường của mình. Khi gấp cuốn sách lại, tôi đã thấy được một điều kì diệu trước mắt của mình. Còn bạn thì sao? Hãy thử xem…

5 tháng 8 2020

hạnh phúc là con đường chung ta không tìn thấy 1 cái nào quan trọng nhất hạnh phúc không đên đến hạnh phúc cho mình là 1 con đường chung ta không được hạnh phúc nào cả vì vậy không có con đường nafo hạnh phúc hết 

14 tháng 6 2018

1. Bạn bè là chỗ dựa vững chải khi mình đã mất mọi người. Lúc này bạn bè có thể chia sẻ, an ủi, động viên để ta không suy sụp tinh thần.

2. Như đã nói thì bạn bè giúp chúng ta cải thiện về mặt tinh thần khi ta gặp những đớn đau, vấp ngã, áp lực, v.v...Những lúc như thế, bn bè là nơi ta nên dặt niềm tin rằng họ sẽ khiến ta hạnh phúc, ấm áp. Bạn bè cx cần tâm sự, chia sẻ những nỗi buồn giấu kín. Và người  ta có thể tâm sự điều đó chính là bạn thân.

   Mh hok lớp 7, ko thể viết hay hơn, nhưng nhớ ủng hộ mh nha.

~ HOK TỐT~

14 tháng 6 2018

1. mình hiểu là : trong những lúc ta khó khăn, bị bỏ rơi trong bóng tối thì khi đó người sẽ giúp chúng ta ra khỏi bóng tối chính là người bạn của ta, câu trên khuyên chúng ta hãy biết giúp nhau trong mọi khó khăn thì sẽ khiến tình bạn thêm chặt chẽ hơn.

2.mình hiểu: trong cuộc sống của chúng ta không thể thiếu đó chính là tình bạn. Nếu có bạn chúng ta sẽ không cô đơn trong cuộc đời, có một người bạn sẽ luôn an ủi ta mỗi khi ta buồn, đồng hành cùng ta trong mỗi chuyến đi và quan trọng nhất là sẽ luôn lắng nghe chúng ta tâm sự mà không than vãn. Đó mới chính là bạn.

26 tháng 4 2020

Đã bao giờ bạn ngồi đọc sách về lịch sử Việt Nam chưa? Đã bao giờ bạn nghĩ về các vị vua thời xưa chưa? Từ xưa đến nay, trải qua bao nhiêu năm lịch sử, trải qua bao đời vua chúa có anh minh, có tàn bạo, ta không thể không nhắc tới hai nhà quân sự tài ba, người lãnh đạo anh minh: vua Lí Thái Tổ (Lý Công Uẩn) và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Tại sao họ lại được lưu truyền như vậy? Phải chăng vì họ là những người xuất chúng, tài ba lỗi lạc hay vì một lí do nào khác? Nhân dân ngàn đời lưu truyền tên tuổi của họ, hẳn họ phải có một cái gì đó mạnh, xuất thần nên mới thu phục lòng dân như vậy. Lý Công uẩn được nhân dân ta biết đến qua Chiêu dời đô và Trần Quốc Tuấn được biết đến qua Hịch tướng sĩ. Hai tác phẩm một chiếu, một hịch, phải chăng có sức mạnh gì ghê gớm đến như vậy?
 
Chiếu dời dô là một bài chiếu do Lý Công Uẩn biên soạn để thể hiện một tư tưởng muốn dời kinh đô. Tại sao ông phải đưa ra nhiều lập luận, lí lẽ như vậy? Sau những lập luận, lí lẽ ấy, ẩn sau cái dáng vẻ nghiêm nghị ấy, là một tấm lòng luôn luôn quan tâm đến việc chăm lo hạnh phúc lâu bền của muôn dân. Một ông vua tốt như vậy được nhân dân ca tụng quả không sai. Bình thường, việc gì nhà vua phải lo đến việc dời đô? Nếu như suy nghĩ của một số ông vua khác thì cho rằng dời đô là một việc tốn kém, rắc rối. Họ cho rằng sống đâu cũng vậy, miễn là trị dân tốt. Đúng, có thể là như thế. Nhưng nếu đặt kinh đố ở một nơi trung tâm trời đất, há chẳng phải mỗi khi các nước ngoài dòm ngó, khi nhìn thấy kinh đô vững chãi, binh lực sẵn sàng thì sẽ thấy sợ hãi mà không dám xâm lược sao? Việc dời đô quả là khó khăn nhưng để đem lại lợi ích cho dân muôn đời, Lý Công Uẩn đã không quản ngại và ông đã soạn ra Chiếu dời dô. Nhưng đâu phải nhà vua ra chiếu là bắt người dân phải dời đô theo ý chỉ. Ông còn hỏi han, nghe ngóng tình hình của các quan trong triều. Làm những việc này, trong thâm tâm Lý Công uẩn chỉ có một ý nghĩ là làm sao để lại cuộc sống no đủ cho nhân dân. Tại sao Lý Công Uẩn không ra chiếu rồi bắt người dân phải dời đô? Vì ông muốn những dự định ông đưa ra sẽ được nhân dân ủng hộ. Chỉ có như vậy thì việc cai quản dân mới gặp nhiều thuận lợi. Để dời đô, không phải là do bột phát tự tìm ra, tự nghĩ ra một nơi, mà do thăm dò, quan sát, suy nghĩ, Lý Công uẩn mới đưa ra được một quyết định đúng đắn. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì nói đúng được ý nguyện của nhân dân, có sự kết hợp hài hoà giữa lí và tình. Không những là một ông vua anh minh, hết lòng quan tâm đến dân, Lý Công Uẩn còn là người thấu tình đạt lí, yêu dân như con, không tự ra quyết định sai lầm mà còn hỏi han ý kiến của quan, dân.
 
Nếu cho rằng Chiếu dời đô là một bài nghị luận có sức thuyết phục mạnh mẽ thì Hịch tướng sĩ cũng là một văn bản có lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu cảm xúc, có sức thuyết phục cao. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một nhà quân sự tài ba, một vị anh hùng lỗi lạc. Ông viết bài hịch này dựa vào lời của cuốn Binh thư yếu lược, để thể hiện lòng căm thù giặc đến tột cùng, khơi dậy trong nhân dân ta sự đồng lòng, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đến giọt máu cuối cùng. Trần Quốc Tuấn viết ra bài hịch, khơi dậy tinh thần yêu nước để nhân dân đứng dậy đấu tranh há chẳng phải là vì dân sao? Vì muốn đất nước được độc lập, nhân dân được no ấm sao? Một tướng lĩnh của nước Đại Việt không thể là một kẻ vì lợi ích riêng mà đẩy nhân dân tới chỗ chết. Trần Quốc Tuấn yêu dân, thương dân nên phải kiên quyết, mạnh mẽ, không chịu lùi bước. Dẫn chứng mà Trần Quốc Tuấn đưa ra trong bài hịch rất phong phú và được sắp xếp theo trình tự thời gian, rất thuyết phục, lí lẽ đưa ra sắc bén, sâu sắc. Quan tâm, lo cho dân không phải đơn giản chỉ là khuyên nhủ nhẹ nhàng mà là kiên quyết khích lệ lòng căm thù bằng việc kể ra tội của giặc, chúng đã sỉ nhục nước ta về tinh thần, vơ vét vật chất của nhân dân ta. Nếu cứ để cho bọn giặc dê chó đó đi nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều sỉ nhục triều đình và sau đó chiếm đoạt đất nước thì chẳng phải nhân dân ta cam chịu làm nô lệ, kiếp trâu ngựa cho bọn chúng sao? Không chỉ có thế, Trần Quốc Tuấn ngoài phê phán còn không quên động viên binh sĩ tập luyện đánh giặc. Tác hại gì sẽ xảy ra khi nhân dân ta với thái độ nhìn chủ nhục mà không lo, thấy nước nhục mà không thẹn, đem nhạc thái thường đãi ngụy sứ mà không biết căm, hay vui thú vườn ruộng, hay quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săn bắn,... Nếu chỉ vì yêu thương dân mà nhu nhược, để cho những sự việc trên cứ tiếp tục xảy ra thì đất nước rồi sẽ đi về đâu? Không, sống chết cũng phải chiến đấu, không thể để một lũ giặc đè đầu cưỡi cổ được. Trần Quốc Tuấn từ khuyên bảo, đã nêu ra những kỉ cương nghiêm khắc. Ông nêu ra dẫn chứng cực kì thuyết phục làm người nghe, người đọc thấu hiểu được tấm lòng. Ông làm những điều này không vi ai khác, đó là vì nhân dân. Ông cũng luôn luôn quan tâm đến việc chăm lo hạnh phúc lâu bền của nhân dân.
 
Hai triều đại, hai con người, hai trái tim lúc nào cũng hướng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp của nhân dân. Trong thâm tâm họ lúc nào cũng có một suy nghĩ: làm thế nào để dân giàu, nước mạnh, nhân dân đỡ đói khổ. Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn tuy không cùng sống trong một triều đại, cách làm cho dân giàu, nước mạnh của họ cũng khác nhau, nhưng trái tim luôn luôn rực sáng. Một người là lãnh đạo anh minh, một người là nhà quân sự tài ba, việc chăm lo hạnh phúc lâu bền cho muôn dân được họ đặt lên hàng đầu.
 
Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ đã trở thành những bản anh hùng ca muôn thuở về lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, thể hiện chân dung thời đại, đồng thời cũng là hình ảnh của dân tộc Việt Nam trong những ngày đầu xây dựng đất nước. Nhưng trên hết, hai tác phẩm đó đã thể hiện được tấm lòng cao cả, thương dân như con của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn - họ luôn quan tâm đến hạnh phức lâu bền của muôn dân.
 
Bằng sự kết hợp hài hoà giữa lí và tình, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đã có sức thuyết phục mạnh mẽ qua những dẫn chứng cụ thể được đưa ra (nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô) nhằm khẳng định đã có nhiều cuộc dời đô trong lịch sử. Theo ông, sự chuyển dời đó là điều rất nên làm vì nó sẽ là động lực mạnh mẽ giúp đất nước ngày một phồn vinh, nhân dân yên ấm. Vậy mà, hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ nhà Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, vận số ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, Lý Công Uẩn đưa ra một giải pháp thuyết phục, nên làm: đó là “dời đô”. Bằng nhãn quan của một vị vua có tầm vóc vĩ đại, lớn lao, Lý Công Uẩn đã quyết định chọn Đại La làm kinh đô. Đại La là vùng đất có đủ những nhân tố thiết yếu để trở thành “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”, “ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đất cao mà thoáng, dân cư không phải chịu cảnh ngập lụt”,... Có thương dân, lo cho dân thì Lý Công Uẩn mới phải ngày đêm “lao tâm khổ tứ”, suy nghĩ tìm ra vừng đất thay thê cho kinh đô Hoa Lư không còn thích hợp. Hoa Lư đă không còn thích hợp cho việc mưu toan nghiệp lớn, chăm lo cho cuộc sống yên ổn, lâu bền của nhân dân. Chiếu dời dô đã không đơn thuần chỉ là lời tuyên bố của một vị vua về vấn đề trọng đại của một dân tộc mà đã trở thành bài ca thể hiện lòng yêu dân của một vị vua anh minh. Những yếu tố mà Lý Công Uẩn đưa ra để quyết định việc chọn Đại La làm kinh đô đã thê hiện tầm nhìn xa trông rộng. Đại La có hướng “nhìn sông dựa núi”. Một vùng đất mà ở nơi đó, chính trị, quốc phòng, đều sẽ được bảo đảm. Và tất nhiên, dân cư sẽ có thể thuận lợi làm ăn, buôn bán, an cư lạc nghiệp ở vùng “đất cao mà thoáng, thế rồng cưộn hổ ngồi”. Lý Công Uẩn lo cho dân cả về đời sống vật chất và tinh thần, chăm lo cho hạnh phúc vững bền của muôn dân trăm họ. Ông lo cho dân vẫn phải chịu cảnh ngập lụt nếu kinh đô vẫn tiếp tục ở Hoa Lư. Có thương dân như con, luôn tận tụy vì cuộc sống của dân thì Lý Công Uẩn mới lo cho dân như vậy. Tóm lại, bằng Chiếu dời đô Lý Công Uẩn đã thể hiện một lòng thương yêu dân sâu sắc. Và việc dời đô lớn lao ấy đã trở thành một trong những công việc đầu tiên đặt nền móng cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước, mở ra một trang sử mới của dân tộc.
 
Đến Hịch tướng sĩ, lòng thương dân đã trở thành lòng yêu thương binh sĩ. Hịch tướng sĩ không chỉ là một tác phẩm thể hiện “hào khí Đông A”, mà còn tiêu biểu như một minh chứng của thời gian về tấm lòng của một vị chủ tướng. Thấy giặc Mông - Nguyên tràn sang lăm le cướp nước, lo cho dân, Trần Quốc Tuấn đã “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Hịch tướng sĩ không chỉ đơn thuần khích lệ binh sĩ đánh giặc, mà còn thể hiện lòng thương yêu dân sâu sắc, sự chăm lo cho cuộc sống hạnh phúc vững bền của muôn dân. Vì chăm lo cho cuộc sống vật chất, cuộc sống tinh thần của anh em binh sĩ, ông đã vẽ ra hai viễn cảnh: một là sự khổ trăm bề khi nước mất nhà tan, hai là khúc khải hoàn chiến thắng với cuộc sông đầy đủ, vui vẻ, ấm no. Đất nước mà mất thì bổng lộc chẳng còn, vợ con khốn khổ, phần mộ cha mẹ bị quật lên, gia thanh phải mang tiếng bại trận. Trần Quốc Tuấn đâu chỉ lo về đời sống vật chất, tinh thần mà ông còn lo cho cả danh dự của anh em binh sĩ. Phải yêu thương, chăm lo cho binh sĩ thì Trần Quốc Tuấn mới có cái nhìn sâu sắc đến thế. Trần Quốc Tuấn đã vạch rõ cho binh sĩ thấy về: nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, ông không chỉ lo cho anh em binh sĩ mà ông còn lo cho gia đình, tổ tiên, vợ con họ. Chừng đó thôi, cũng đủ để thấy tấm lòng của vị chủ tướng rồi. Ông còn vẽ ra một viễn cảnh huy hoàng của ngày chiến thắng với “bổng lộc đời đời hưởng thụ, vợ con được bách niên giai lão, tổ tông được thờ cúng quanh năm, trăm năm sau tiếng vẫn lưu truyền, tên họ cùng sử sách lưu thơm”. Tấm lòng của vị chủ tướng được thể hiện ở ngay trong cuộc sống hằng ngày: không có mặc thì cho áo, không có ăn thì cho cơm; quan nhỏ thăng chức, lương ít cấp bổng; đi thuỷ cho thuyền, đi bộ cho ngựa cho đến lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết; lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Những hành động tưởng chừng như rất nhỏ nhặt, nhưng chính là những bằng chứng rõ ràng nhất về tấm lòng của vị chủ tướng với binh sĩ. Hịch tướng sĩ là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Mông - Nguyên, đồng thời cũng là minh chứng cho lòng yêu thương binh sĩ của vị Tiết chế tài ba.
 
Tuy Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ được viết bởi hai trường hợp khác nhau, từ hai thời đại khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng: đó chính là sự quan tâm đến hạnh phúc của muôn dân và đó cũng chính là nhân tố quan trọng nhất để hai tác phẩm dó sống mãi cùng thời gian. Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ là một kho báu quý giá, chân thực nhất về tấm lòng cao cả, lớn lao của những nhà lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn với dân, với nước.

K MK NHA

26 tháng 4 2020

K CHO MK IK