K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:TÀU ĐI HÒN GAI Tàu của những người nghèo. Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp(1) lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long. Ngồi đối diện với tôi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

TÀU ĐI HÒN GAI

Tàu của những người nghèo.

Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp(1) lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long.

Ngồi đối diện với tôi là người đàn ông luống tuổi, tóc bạc một cách cục cằn. Những đường nhăn không quy luật khó đoán định kẻ lên bộ mặt xạm đen vì nắng gió. Ông bảo ra Trà Cổ “tìm thằng con bất hiếu”. Nó về xin ông chia gia tài để cấp vốn cho con vợ đi buôn hàng Trung Quốc. Ông từ chối. Nó đào trộm nền nhà, cuỗm sạch của ông số vàng dưỡng lão. “Năm cây vàng của tôi chứ có ít ỏi gì.” – Ông nói.

Bên cạnh tôi là một bà mù, đi với đứa con út đang ngủ gà ngủ gật. Bà còn trẻ, mắt mở to như mắt người sáng, nét mặt không một nếp nhăn và bình thản. Không thể tưởng tượng được đôi mắt ấy không còn nhận được ánh sáng, và mặt biển chiều rực rỡ trên vịnh Hạ Long đối với bà chỉ còn là đêm tối mênh mông. Bà chăm chú nghe chuyện của chúng tôi theo cung cách và điệu bộ của người mù, sự chăm chú của toàn bộ cơ thể. Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.”.

Câu nói như an ủi được phần nào người cha đau khổ, ông nghiêng người ra phía trước, lắng nghe. Người đàn bà mù kể:

– Hồi lên mười, mắt tôi còn sáng. Cạnh nhà tôi có một bà cụ mù. Bà góa chồng từ lúc còn trẻ nhưng ở vậy nuôi con. Rồi bị một cơn thiên đầu thống(2) thế là mù hẳn. Anh con trai cưới vợ. Cả xóm nghèo ai cũng có tiền mừng, mọi người tự đặt vào bàn tay bà cụ. Ở chỗ tôi những người sáng mắt cũng còn chật vật lắm mới kiếm được miếng ăn, huống gì bà. Cưới được nàng dâu tốt nết, chắc đời bà đỡ khổ. Nhưng có ai ngờ anh con! Sau ngày anh có vợ, người ta đã xì xầm về anh những chuyện tày trời. Thế rồi một hôm, sang nhà con bạn chơi, tôi thấy nó đang chúi mũi vào một lỗ thủng trên vách đất, nhìn sang gian nhà của bà cụ mù. Nó vẫy tay tôi lại. Các chư ông có biết tôi nhìn thấy chuyện gì không? Cả nhà bà cụ đang ngồi bên mâm cơm.

Trên mâm có một đĩa rau luộc, một đĩa thịt kho vàng. Bà cụ ngồi nhai cơm. Anh con trai đang bặm môi dùng hai chiếc đũa đẩy đĩa thịt về phía vợ. Còn chị con dâu, mặt đỏ bừng vì xấu hổ, chống lại chồng bằng cách lấy đũa đẩy cái đĩa sang phía mẹ chồng. Cả hai giằng co nhau trên cái mâm, trong im lặng. Chỉ còn nghe tiếng nhai trệu trạo của bà mẹ. Lúc đó tôi nghĩ bà không biết gì. Trước mắt bà chỉ là đêm tối, như trước mắt tôi bây giờ cũng chỉ là đêm tối… Cầu trời cho các chư ông đừng bao giờ phải nhìn thấy cái cảnh tôi nhìn thấy đó. Hai năm sau, bà mẹ treo cổ tự vẫn ngay trong nhà, chị con dâu đẻ được một đứa con trai thì ôm con về nhà mẹ. Nhưng anh con trai lại làm ăn tấn tới, mua được nhà khác và dọn đi. Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Người đàn ông nức to lên một tiếng. Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều. Tôi nghĩ là câu chuyện đau buồn kia đã chạm đến vết thương lòng của ông. Tôi đưa ông lọ dầu gió: “Bác khó ở?...”. Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu. Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ. Tôi bỗng nghĩ đến cái chết của bà mẹ mù trong câu chuyện đang làm tôi run cả người lên. Đàn ông cũng chẳng cứng rắn gì hơn đàn bà. Trên đường ra vịnh đã có bao nhiêu cuộc đời tìm cách tự giải thoát vào làn nước xanh thẫm này. Tôi quả quyết đứng dậy, đi theo người đàn ông. Ông đã ngồi xuống đống dây chão trên lỗ neo. Tôi bước lại gần, cố nghĩ cách làm ông khuây khỏa: “Ngày mai mới có tàu ra Trà Cổ. Nhà tôi ở gần núi Bài Thơ, nếu tiện xin mời bác…”.

Người bạn đường nhìn tôi với đôi mắt biết ơn. Nhưng một khoảng trống mênh mông hiện ra trong mắt ông, trong cái nhìn mà tôi không thể nào mô tả nổi, một nỗi xót xa, ân hận hay thứ tình cảm gì gần như thế đang làm đôi đồng tử mắt ông to ra, như ông đang hấp hối. Linh tính mách bảo tôi một điều: người đàn ông này phải nói câu gì đó với tôi hay bất kỳ ai khác. Nếu không ông sẽ gục xuống. Tôi đã không nhầm. Ông nói:

– Cám ơn ông. Nhưng tôi không ra Trà Cổ làm gì nữa. Tôi thế là đáng đời. Ông biết không, tôi đã nhận ra bà mù ấy. Bốn mươi năm trước bà ta là cô bé hàng xóm của hai mẹ con tôi.

(Nguyễn Quang Thân, 100 truyện hay cực ngắn, Tạp chí Thế giới mới - NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1999)

* Chú thích:

(1)Xế địp: Tiếng động cơ tàu thủy.

(2)Thiên đầu thống: Một bệnh về mắt, dễ dẫn tới tổn hại dây thần kinh thị giác.

Câu 1. Chỉ ra các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong những câu văn sau: Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.”.

Câu 2. Liệt kê những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù.

Câu 3. Phân tích tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Câu 4. Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Câu 5. Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/chị và lí giải tại sao.

1
12 tháng 5

Câu 1: Chỉ ra các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong những câu văn sau:

"Bà nói: 'Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.'"

Các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong câu này là:

  • "Thưa các ông": Đây là cách xưng hô trang trọng và lịch sự.
  • "Tôi xin kể các ông nghe": Cụm từ "xin kể" thể hiện sự khiêm nhường và tôn trọng người nghe.
  • "Xin ông đừng buồn": Lời an ủi thể hiện sự tôn trọng và cảm thông sâu sắc với người đàn ông.
  • "Thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông": Mặc dù nội dung có thể đau buồn, nhưng cách sử dụng "thiên hạ" cho thấy sự trang trọng, bao quát.

Câu 2: Liệt kê những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù.

Những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù là:

  • "Người đàn ông nức to lên một tiếng": Đây là dấu hiệu thể hiện cảm xúc đau đớn và sự xúc động mạnh mẽ.
  • "Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều": Mô tả cho thấy sự thay đổi lớn về mặt tâm lý của người đàn ông, sự đau khổ và suy nghĩ về câu chuyện.
  • "Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu": Cử chỉ này cho thấy ông muốn rời khỏi không gian đó, có thể là để trốn tránh cảm xúc hoặc không thể chịu đựng thêm.
  • "Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ": Miêu tả này thể hiện rõ sự mệt mỏi và sự đè nén tâm lý, làm nổi bật sự yếu đuối, kiệt quệ của người đàn ông sau khi nghe câu chuyện.

Câu 3: Phân tích tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Trong văn bản này, tác giả lựa chọn ngôi kể "người kể xưng tôi" để đưa người đọc vào một câu chuyện theo góc nhìn của nhân vật người kể, đồng thời tạo ra sự gần gũi, chân thực. Cụ thể:

  • Ngôi kể thứ nhất giúp người đọc cảm nhận rõ hơn những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi” - người kể chuyện. Việc này khiến cho câu chuyện trở nên gần gũi và chân thực hơn, khi người đọc có thể đồng cảm trực tiếp với những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.
  • Tạo không gian tâm lý cho người đọc: Ngôi kể "tôi" giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận nỗi đau, sự xót xa của các nhân vật trong câu chuyện, đặc biệt là người đàn ông và người phụ nữ mù.
  • Khơi gợi sự đồng cảm: Bằng cách kể câu chuyện từ góc nhìn của "tôi", tác giả không chỉ cung cấp thông tin mà còn giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau của nhân vật qua lăng kính cảm xúc của người kể.

Câu 4: Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: "Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!"

Câu nói của người đàn bà mù thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, mặc dù bà đã mất đi ánh sáng mắt, nhưng qua thời gian, bà nhận ra rằng sự mù lòa không chỉ là thiếu vắng ánh sáng vật lý, mà còn là sự mở rộng tầm nhìn về những điều ẩn sâu trong cuộc sống. Câu nói này mang hàm ý rằng:

  • "Nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm": Người mù, mặc dù không còn khả năng nhìn thấy bằng mắt, nhưng họ lại có thể cảm nhận và hiểu được những điều mà người sáng mắt đôi khi không nhận ra. Đây là sự giác ngộ về cuộc sống, về những sự thật khó nhìn thấy qua bề mặt, mà chỉ có thể cảm nhận qua trái tim và kinh nghiệm sống.
  • Sự "nhầm" của người đàn bà là bà đã hiểu sai lầm rằng mắt sáng mới là điều quan trọng để hiểu thế giới, nhưng bà nhận ra rằng trong bóng tối, con người có thể hiểu và cảm nhận những điều sâu sắc mà không thể thấy bằng mắt thường.

Câu 5: Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/chị và lý giải tại sao.

Thông điệp có ý nghĩa nhất đối với tôi là: "Cuộc sống có nhiều khía cạnh không thể nhìn thấy bằng mắt, và đôi khi những điều quan trọng nhất lại nằm trong bóng tối."

Lý giải: Câu chuyện của người đàn bà mù và người đàn ông bất hiếu cho thấy rằng trong cuộc sống, đôi khi những gì chúng ta nhìn thấy bên ngoài chưa hẳn phản ánh đúng bản chất, mà phải thông qua cảm nhận, sự thấu hiểu và trải nghiệm sâu sắc để nhận ra giá trị thật sự. Thông điệp này nhắc nhở tôi về việc không chỉ đánh giá sự việc qua vẻ bề ngoài mà còn cần phải lắng nghe và cảm nhận những điều chưa thể nhìn thấy bằng mắt thường.

Đề thi đánh giá năng lực

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ(Trích) Trong số rất nhiều thách thức đa dạng và thú vị mà ngày nay chúng ta phải đối diện, điều cấp bách và quan trọng nhất là làm sao phải hiểu và định hình cuộc cách mạng công nghệ mới, điều chắc chắn sẽ thay đổi toàn diện bộ mặt của nhân loại. Chúng ta đang ở...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

(Trích)

Trong số rất nhiều thách thức đa dạng và thú vị mà ngày nay chúng ta phải đối diện, điều cấp bách và quan trọng nhất là làm sao phải hiểu và định hình cuộc cách mạng công nghệ mới, điều chắc chắn sẽ thay đổi toàn diện bộ mặt của nhân loại. Chúng ta đang ở thời điểm khởi đầu của một cuộc cách mạng sẽ thay đổi sâu sắc cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Xét về quy mô, tầm vóc và độ phức tạp, hiện tượng mà tôi coi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này không giống bất kỳ điều gì mà nhân loại từng trải qua.

Đến nay chúng ta vẫn chưa hình dung được đầy đủ tốc độ và phạm vi của cuộc cách mạng mới này. Hãy nghĩ đến vô số khả năng cho phép hàng tỷ con người kết nối với nhau bằng thiết bị di động, tạo nên sức mạnh xử lý, năng lực lưu trữ và cơ hội tiếp cận tri thức chưa từng có. Hoặc đến sự hợp lưu đáng kinh ngạc như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ robot, internet kết nối vạn vật, xe tự hành, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử, và còn nhiều nữa,… Nhiều sáng kiến vẫn còn sơ khai, nhưng chúng đã đến bước ngoặt trong quá trình phát triển nhờ dựa vào nhau và khuếch đại lẫn nhau trong một sự giao thoa công nghệ trên cả thế giới vật chất, thế giới số, lẫn thế giới sinh học.

(Theo Klaus Schwab, dịch giả Đồng Bích Ngọc, Nguyễn Thị Mỹ Anh, NXB Thế giới, 2018, tr.11)

Câu 1. Xác định thông tin chính của văn bản.

Câu 2. Văn bản trên sử dụng dữ liệu sơ cấp hay thứ cấp?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu văn in đậm.

Câu 4. Nhận xét về thái độ, quan điểm của người viết văn bản.

Câu 5. Văn bản trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ? (Trình bày nhiều nhất từ 5 đến 7 dòng).

0
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: HƯƠNG MÙA THU, PHỐ BIỂN…Tôi có gì thêm khi đến Hải PhòngThành phố của bộn bề cần cẩu thépCủa những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,Hàng cây số dài, búa máy râm ran,Lại cả của mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển,Con hải âu lượn chao như niềm vui...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

HƯƠNG MÙA THU, PHỐ BIỂN…

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng
Thành phố của bộn bề cần cẩu thép
Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,
Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,
Hàng cây số dài, búa máy râm ran,
Lại cả của mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển,
Con hải âu lượn chao như niềm vui hiển hiện,
Một bờ cát nguyên ròng ánh một vết chân in.
Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên
Hơi thở trong tôi như dồn nén lại
Hơi thở sâu đằm, hơi thở ngày bé dại,
Trong cảm giác yêu đời như bỏng cháy trên da.
Tôi thức giấc lần đầu từ tiếng vọng khơi xa
Con tàu mới xuống đà(1) như tiệc cưới
Màu sơn thắm lao xao triền nước nổi
Sóng cồn lên mùi hăng lạ – hương dầu.
Hải Phòng buộc tôi thức giấc lần đầu
Để từ đó không sao còn ngủ được
Biển mê mải mùa thu đầy ắp nước
Suốt đêm ngày vỗ sóng lớn không thôi!
Và vị mặn cần lao bỗng xộc đến trong tôi
Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt,
Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt,
Của hơi người đi, hối hả nối nhau...
[...]

Hải Phòng, 1974

(Trích Bằng Việt – Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, 2010, tr.120 – 121)

* Chú thích:

Đà: Là thiết bị dùng để hạ thuỷ tàu mới. Sau khi hoàn thành việc đóng tàu trên cạn, tàu sẽ được di chuyển từ trên đà để trượt xuống nước một cách an toàn.

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của đoạn trích.

Câu 2. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên nào để miêu tả mùa thu phố biển?

Câu 3. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong những dòng thơ sau:

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng
Thành phố của bộn bề cần cẩu thép
Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,
Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,
Hàng cây số dài, búa máy râm ran,

Câu 4. Anh chị hiểu như thế nào về vị mặn cần lao trong khổ thơ:

Và vị mặn cần lao bỗng xộc đến trong tôi
Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt,
Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt,
Của hơi người đi, hối hả nối nhau...

Câu 5. Từ ý thơ Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên, anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của những khoảng lặng yên giữa sự náo nhiệt lạ lùng của đô thị. (Trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

1
24 tháng 5

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của đoạn trích.

  • Dấu hiệu hình thức: Đoạn trích được trình bày theo dạng các dòng thơ tự do, không bị ràng buộc bởi số tiếng (âm tiết) cố định trong mỗi dòng, không vần theo quy tắc nhất định (có thể có vần nhưng không cố định theo cặp hay khổ), và số câu trong mỗi khổ cũng không đồng đều.
  • Xác định thể thơ: Dựa vào những dấu hiệu trên, đoạn trích được viết theo thể thơ tự do.

Câu 2. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên nào để miêu tả mùa thu phố biển?

Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên sau để miêu tả mùa thu phố biển:

  • "mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển"
  • "Hải âu lượn chao như niềm vui hiển hiện"

Câu 3. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong những dòng thơ sau:

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng Thành phố của bộn bề cần cẩu thép Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc, Của màu khói xì măng, những ánh chớp lửa hàn, Hàng cây số dài, búa máy rầm ran,

  • Biện pháp tu từ: Liệt kê.
  • Hiệu quả:
    • Nhấn mạnh sự sầm uất, công nghiệp của Hải Phòng: Biện pháp liệt kê một loạt các chi tiết cụ thể như "bộn bề cần cẩu thép", "những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc", "màu khói xì măng", "ánh chớp lửa hàn", "hàng cây số dài", "búa máy rầm ran" đã khắc họa rõ nét hình ảnh một thành phố cảng công nghiệp sôi động, mạnh mẽ.
    • Tạo ấn tượng về sự phong phú, đa dạng: Cho thấy Hải Phòng không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là trung tâm của lao động, sản xuất, với những âm thanh, màu sắc rất riêng biệt của công nghiệp.
    • Gợi cảm giác choáng ngợp, choáng ngợp: Sự xuất hiện liên tiếp của các hình ảnh chi tiết, sống động làm người đọc hình dung được sự đồ sộ, nhộn nhịp, và quy mô lớn của hoạt động sản xuất, xây dựng tại thành phố này.

Câu 4. Anh chị hiểu như thế nào về vị mặn cấn lao trong khổ thơ:

Và vị mặn cấn lao bỗng xộc đến trong tôi Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt, Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt, Của hơi người đi, hối hả nói nhau…

"Vị mặn cấn lao" ở đây không chỉ là vị mặn thông thường của biển cả mà là một "vị" tổng hợp, đặc trưng của lao động và cuộc sống tại một thành phố cảng công nghiệp.

  • "Vị mặn của mồ hôi": Gợi lên sự vất vả, cần cù, nỗ lực của những người lao động nơi đây. Đó là giọt mồ hôi đổ ra trên các công trường, bến cảng.
  • "Vị mặn của bến tàu, gỉ sắt": Là mùi vị đặc trưng của cảng biển, của những con tàu, những thiết bị làm việc ngoài trời bị ảnh hưởng bởi hơi nước biển, hơi mặn của gió biển và sự bào mòn của thời gian. Đó là mùi của kim loại, của dầu mỡ, của sự han gỉ.
  • "Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt": "Bụi trắng" có thể là bụi xi măng, bụi công nghiệp, càng khắc họa rõ nét môi trường làm việc đặc thù. "Gió se trên mặt" gợi cảm giác về gió biển, vừa mang hơi lạnh vừa mang theo mùi vị của biển cả và những yếu tố công nghiệp.
  • "Của hơi người đi, hối hả nói nhau…": Hình ảnh này nhấn mạnh sự tấp nập, vội vã, năng động của con người Hải Phòng trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Đó là hơi thở của cuộc sống lao động hối hả, nhộn nhịp.

Tóm lại, "vị mặn cấn lao" là sự tổng hòa của các giác quan: vị (mặn), khứu giác (mồ hôi, gỉ sắt), xúc giác (bụi, gió), và thính giác (hơi người, nói hối hả). Nó không chỉ đơn thuần là vị mặn của biển mà là vị mặn của cuộc sống lao động, của sự vất vả, của nỗ lực và sự sống động đặc trưng của một thành phố công nghiệp cảng biển như Hải Phòng. Đây là một vị mặn rất chân thực, rất "đời" và rất đặc trưng của vùng đất này, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của tác giả về Hải Phòng.

Câu 5. Từ tứ thơ "Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên, anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của những khoảng lặng yên giữa sự náo nhiệt lạ lùng của đô thị? (Trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

Tứ thơ "Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên" thể hiện một nhu cầu sâu sắc của con người hiện đại: tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn giữa bộn bề cuộc sống đô thị. Trong sự hối hả, ồn ào của thành phố, nơi mọi thứ dường như không ngừng chuyển động và đòi hỏi sự thích ứng liên tục, những khoảng lặng yên trở thành "ốc đảo" cần thiết. Đó là khoảnh khắc để con người được tách mình ra khỏi dòng chảy vội vã, lắng nghe bản thân, chiêm nghiệm và tái tạo năng lượng. Những giây phút tĩnh lặng này giúp ta không bị cuốn trôi bởi guồng quay vật chất, mà có thể tìm thấy sự cân bằng, nhận ra giá trị thực sự của cuộc sống, và từ đó, có thể trở lại với sự náo nhiệt một cách tỉnh táo và hiệu quả hơn. Khoảng lặng yên không phải là sự chối bỏ đô thị, mà là một cách để sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn trong lòng nó.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát.

    Chẳng thà bạn phạm sai lầm, chẳng thà bạn phải dò dẫm tìm một lối đi mới và hữu ích còn hơn là cứ phân vân, lo sợ thất bại để rồi chùn bước. Khi dám nghĩ dám làm, sức mạnh tiềm ẩn vốn có trong mỗi chúng ta sẽ trỗi dậy để hỗ trợ và tiếp sức, đưa ta tiến lên phía trước.

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ. Bạn sẽ không phải mất thời gian mò tìm lối thoát từ những ngổn ngang của các hy vọng vỡ vụn và ước mơ héo úa. Hãy cố gắng làm công việc của bạn tốt hơn người tiền nhiệm; đừng để cho cái bóng của người phía trên che khuất bạn. Để đạt được tất cả những điều đó thì trước hết bạn phải dám nghĩ – dám làm.

(Trích You can – Không gì là không thể, George Matthew Adams, dịch giả Thu Hằng, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.132 – 133)

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?  

Câu 2. Theo văn bản, khi dám nghĩ dám làm thì điều gì sẽ đến với mỗi chúng ta?

Câu 3.  Hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các câu văn sau có ý nghĩa gì?

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ.

Câu 4. Việc sử dụng bằng chứng trong câu văn Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát. có tác dụng gì trong văn bản?

Câu 5. Từ nội dung đề cập trong văn bản, hãy cho biết bài học về lẽ sống mà anh/chị tâm đắc nhất là gì? (Trả lời nhiều nhất từ 5 đến 7 dòng)

2
23 tháng 5
2. Bài văn nghị luận: Câu 1: Đoạn văn nghị luận về "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" (khoảng 200 chữ) Trong cuộc sống, sự an toàn và ổn định là điều mà ai cũng mong muốn. Tuy nhiên, nếu chỉ mãi quẩn quanh trong vùng an toàn, chúng ta sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để phát triển và khám phá bản thân. "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" - đó là một lời khuyên quý giá, đặc biệt đối với những người trẻ. Dấn thân vào những điều mới mẻ không chỉ giúp chúng ta mở rộng kiến thức, tích lũy kinh nghiệm mà còn rèn luyện bản lĩnh, sự tự tin và khả năng thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. Đôi khi, chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại, nhưng đó lại là những bài học vô giá giúp chúng ta trưởng thành hơn. Tuổi trẻ là thời gian để thử thách, để trải nghiệm và để khám phá. Đừng ngần ngại bước ra khỏi vùng an toàn, hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ để viết nên câu chuyện cuộc đời mình thật ý nghĩa và đáng nhớ. Câu 2: Bài văn phân tích cảm xúc, suy tư của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ của Lê Huy Mậu (khoảng 600 chữ) Đoạn thơ trích từ "Thời gian khắc khoải" của Lê Huy Mậu đã vẽ nên một bức tranh quê hương vừa bình dị, thân thương, vừa thấm đượm những suy tư, trăn trở của nhân vật trữ tình về quá khứ và hiện tại. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, hình ảnh quê hương hiện lên với vẻ nghèo khó, đơn sơ: "quê hương ta nghèo lắm". Tuy nhiên, đằng sau cái nghèo ấy lại là một tấm lòng nhân hậu, sẻ chia: "ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn / ta mổ lợn con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt". Những hành động nhỏ bé ấy thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và những sinh vật bé nhỏ. Đặc biệt, câu thơ "cá dưới sông cũng có Tết như người trên bãi sông" đã nhân hóa loài vật, khẳng định sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên trong không gian làng quê. Tiếp theo, đoạn thơ khắc họa những sinh hoạt đời thường giản dị của người dân quê: "ta trồng cây cải tươi / ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật". Hình ảnh cây cải tươi xanh, bướm ong lượn lờ không chỉ gợi lên vẻ đẹp thanh bình của làng quê mà còn thể hiện sự trân trọng những gì mà thiên nhiên ban tặng. Câu thơ "lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm / trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh..." đã tái hiện lại một cách chân thực cảnh thu hoạch lúa và cuộc sống thanh nhàn của con trâu sau vụ mùa. Đoạn thơ khép lại bằng những dòng suy tư, hồi tưởng của nhân vật trữ tình về quá khứ: "Cùng một bến sông phía dưới trâu đằm / phía trên ta tắm... / trong ký ức ta sao ngày xưa yên ổn quá chừng / một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." Hình ảnh bến sông quen thuộc gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm, yên ả. Từ láy "yên ổn" gợi lên cảm giác bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Câu thơ cuối cùng "một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." là một ẩn dụ về dòng chảy thời gian, dòng chảy ký ức và cả dòng chảy văn hóa của quê hương. Với ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức gợi, Lê Huy Mậu đã tái hiện lại một cách sinh động bức tranh quê hương và những cảm xúc, suy tư sâu lắng của nhân vật trữ tình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Đoạn thơ không chỉ là một khúc hát về quê hương mà còn là lời nhắn nhủ về sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống và tình yêu thương đối với quê hương, xứ sở.
23 tháng 5

Các bước thực hiện động tác vươn thở

  1. Tư thế chuẩn bị:
    • Đứng thẳng, hai chân mở rộng bằng vai, hai tay buông xuôi tự nhiên theo thân người.
  2. Bước 1:
    • Hít sâu, đồng thời đưa hai tay lên cao qua đầu, lòng bàn tay hướng vào nhau hoặc hướng ra phía trước.
  3. Bước 2:
    • Vươn người lên cao hết mức, có thể kiễng chân lên (nếu yêu cầu), giữ tư thế trong 1-2 giây.
  4. Bước 3:
    • Thở ra, đồng thời hạ hai tay xuống, trở về tư thế ban đầu.
  5. Lặp lại động tác theo nhịp hướng dẫn (thường 2-4 lần).

Lưu ý khi thực hiện:

  • Khi đưa tay lên thì hít vào, khi hạ tay xuống thì thở ra.
  • Động tác thực hiện nhẹ nhàng, nhịp nhàng, không gắng sức.
  • Giữ lưng thẳng, mắt nhìn thẳng về phía trước.


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU Không có một loài chim nào tự đẩy con mình                               từ vách núi cao xuống biển Con yêu thương chỉ có mẹ Hải âu thôi đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm con đừng rúc vào ngực mẹ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ con...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU

Không có một loài chim nào tự đẩy con mình
                               từ vách núi cao xuống biển
Con yêu thương
chỉ có mẹ Hải âu thôi
đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm
con đừng rúc vào ngực mẹ
đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ
con phải lao xuống biển
có thể gặp vô vàn hiểm nguy
nhưng con phải sống
con sẽ sống
và con tự sống
đó là bản năng tự tin của lòng dũng cảm
là môi trường sống duy nhất của con
của loài Hải âu chúng ta
nơi đó sẽ có những ngư dân
có những người thủy thủ
bạn tốt của chúng ta
họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm
họ yêu quý con bằng tình yêu biển cả
nơi đó con có cả bầu trời tự do
thoả niềm đam mê, khao khát

Nào, con yêu thương của mẹ!
bắt đầu nhé
lao xuống
tung cánh ra
đập cánh
Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu

(Nguyễn Đình Tâm, viết & đọc, chuyên đề mùa hè 2024, NXB Hội Nhà văn, 2024, trang 233)

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2. Theo văn bản, mẹ Hải âu có hành động gì khác biệt so với các loài chim khác?

Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về lời của mẹ Hải âu qua các dòng thơ: “con đừng rúc vào ngực mẹ/ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ/ con phải lao xuống biển?”.

Câu 4. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong dòng thơ: “họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm”.

Câu 5. Ý thơ “Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu” gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì? (trả lời khoảng 5 – 7 dòng)

4
20 tháng 5

Cũng hay

20 tháng 5

trả lời chứ sao lại hay ?


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

(Nhớ, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, Tập 3, NXB Văn học, 1997, tr.67)

Câu 1. (0,5 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. (0,5 điểm) Chỉ ra những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản.

Câu 3. (1,0 điểm) Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai dòng thơ sau:

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.

Câu 4. (1,0 điểm) Anh/Chị cho biết ý nghĩa của hình ảnh “ngôi sao”, “ngọn lửa” trong văn bản.  

Câu 5. (1,0 điểm) Từ văn bản, anh/chị suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với đất nước (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

1

Câu 1. Thể thơ của văn bản trên là thể tự do.

Câu 2. Những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản: "hồng đêm lạnh""bập bùng đỏ rực".

Câu 3. Hai dòng thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “anh yêu em như anh yêu đất nước”. So sánh tình yêu đôi lứa với tình yêu đất nước làm nổi bật sự thiêng liêng, sâu sắc và thủy chung. Qua đó, nhà thơ thể hiện quan niệm cao đẹp: tình yêu cá nhân hòa quyện trong tình yêu lớn lao với Tổ quốc, làm cho tình cảm trở nên vừa lãng mạn vừa hào hùng.

Câu 4. Hình ảnh “ngôi sao” tượng trưng cho ánh sáng dẫn đường, hy vọng và lý tưởng sống. Hình ảnh “ngọn lửa” tượng trưng cho sự ấm áp, nhiệt huyết, sức sống bền bỉ trong hoàn cảnh gian khổ. Cả hai hình ảnh đều thể hiện tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của người chiến sĩ giữa chiến trường.

Câu 5. từ văn bản em nhận ra thế hệ trẻ hôm nay cần có trách nhiệm yêu nước và sống có lý tưởng. dù không phải cầm súng ra trận nhưng chúng em phải học tập tốt, rèn luyện bản thân, biết yêu thương con người và cống hiến cho cộng đồng. đó chính là cách thể hiện lòng biết ơn với những người đi trước và góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Đọc đoạn trích sau:CON THÚ LỚN NHẤTNguyễn Huy Thiệp Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại,...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

CON THÚ LỚN NHẤT

Nguyễn Huy Thiệp

Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.

Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.

Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt... Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ già của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.

Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?

Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú… Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái. Cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “đùng”! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.

Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con vượn. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây, gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.

Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão.

Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.

(Trích Những ngọn gió Hua Tát, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr. 258 – 262)

* Chú thích:

Cái lếp: giỏ đeo.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm): Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhoè máu.

Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.

Câu 5 (1,0 điểm): Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

0

emchaof cô


Đọc đoạn trích sau:Lời cầu hôn trong thời đại số (1) Từ lúc hai đứa trẻ gặp nhau lần đầu tiên cho đến khi chúng chính thức trở thành "vợ chồng" theo phong tục, có thể chỉ tính bằng tiếng đồng hồ. "Bây giờ có cái Facebook đẩy." – phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia nhận định. Hai bạn trẻ có thể kết bạn qua mạng, gặp nhau lần đầu, thích nhau và sau vài chục phút đã có...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

Lời cầu hôn trong thời đại số

(1) Từ lúc hai đứa trẻ gặp nhau lần đầu tiên cho đến khi chúng chính thức trở thành "vợ chồng" theo phong tục, có thể chỉ tính bằng tiếng đồng hồ. "Bây giờ có cái Facebook đẩy." – phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia nhận định. Hai bạn trẻ có thể kết bạn qua mạng, gặp nhau lần đầu, thích nhau và sau vài chục phút đã có mặt tại nhà người nam để bắt đầu tiến trình trở thành vợ chồng."Vừa yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không?", một cô bé 14 tuổi tại Vân Hồ chia sẻ trên sóng VTV về một người bạn quen qua Facebook. Tổng thời gian từ lúc kết bạn qua mạng đến lúc thành vợ người ta là trong hai ngày (....)

(2) Mở Facebook giữa những kỳ nghỉ lễ, rất dễ gặp ai đó đang check-in bên những tán mận trắng, những đồi chè hay nếp nhà người Mông ở Vân Hồ. Du lịch đang bùng nổ. Giữa huyện miền núi là một đô thị đang thai nghén với đường bê tông sáu làn xe. Những tín hiệu kinh tế lấp lánh. Kỷ niệm 10 năm thành lập huyện là một chương trình nghệ thuật quy mô với đầy nghệ sĩ tên tuổi từ Hà Nội; giải xe thể thao tường thuật trực tiếp trên VTV và hàng đoàn xe dưới xuôi lên dự hội. Dọc quốc lộ 6 đang mọc nhà hàng, homestay và nông trại dâu tây – thứ đặc sản mới ở vùng khí hậu này. Trong 10 năm, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm một nửa.

(3) Nhưng những tín hiệu kinh tế đó chưa làm suy chuyển những định kiến lâu đời. Năm 2021, ở Vân Hồ có 72 cặp tảo hôn trong tổng số 265 cặp kết hôn, theo thống kê của Trung tâm Y tế huyện. 144 đứa trẻ lấy vợ lấy chồng. Nhưng trong văn bản xác định mục tiêu vận động chống nạn tảo hôn của trung tâm y tế cuối năm đó, người ta nhìn thấy một mục tiêu cho năm 2022: "Giảm 0,5% tỉ lệ tảo hôn". Viết bằng chữ: không phẩy năm phần trăm. Năm 2022, số ca tảo hôn tăng lên tới 81. Nhưng vì năm đó có nhiều cặp kết hôn hơn nên tỉ lệ tảo hôn lại thành ra giảm. Thống kê gần nhất ở quy mô toàn quốc (số liệu năm 2018) cho thấy tỉ lệ tảo hôn vẫn đang chiếm đa số trong cộng đồng người Mông, với mức 51%. Con số này tăng so với lần thống kê trước đó của UN Women (năm 2015, hơn 30%). Tại Vân Hồ, thống kê riêng của Trung tâm Y tế huyện, khẳng định rằng trong năm tháng đầu năm 2023, đã có 53 cặp tảo hôn trong tổng số 165 cặp kết hôn, với tỉ lệ 32%.

(4) Theo nhận định của lãnh đạo Trung tâm Y tế huyện – những người đang phụ trách các chương trình về sức khỏe tiền sinh sản trong cộng đồng, tình trạng tảo hôn "có xu hướng gia tăng". Những yếu tố tạo ra những ca tảo hôn đều hình thành một cách tự nhiên: áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15; định kiến giới nặng nề về vai trò "trước sau gì cũng lấy chồng sinh con" của người con gái; hôn nhân được tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ. Và như nhận định của những cán bộ tại Vân Hồ, do những kết nối mới thông qua Internet.

(5) Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném – bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.

(Đinh Đức Hoàng, https://cuoituan.tuoitre.vn/xu-huong-gia-tang-tao-hon-loi-cau-hon-tuoi-15)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra cách trình bày thông tin trong văn bản.

Câu 2 (0,75 điểm): Theo văn bản, có những lí do nào khiến hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng trong thời đại công nghệ khi tín hiệu kinh tế đã đáng mừng hơn?

Câu 3 (1,0 điểm): Nhận xét về vai trò, ý nghĩa của các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được thể hiện ở đoạn (1) và (3) trong văn bản.

Câu 4 (0,75 điểm): Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong câu sau: “Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.”

Câu 5 (1,0 điểm): Văn bản “Lời cầu hôn trong thời đại số” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về những ảnh hưởng, áp lực của cộng đồng và định kiến trong đời sống?

1
30 tháng 5


thưa cô

Dưới đây là phân tích các câu hỏi dựa trên đoạn trích "Lời cầu hôn trong thời đại số":


Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra cách trình bày thông tin trong văn bản.

Văn bản trình bày thông tin theo cách kết hợp giữa việc nêu vấn đề, phân tích nguyên nhân, và đưa ra số liệu minh chứng. Cụ thể:

  • Nêu vấn đề và hiện tượng: Đoạn (1) và (2) giới thiệu về tình trạng tảo hôn đang diễn ra ở Vân Hồ trong bối cảnh phát triển của công nghệ và du lịch.
  • Phân tích nguyên nhân: Đoạn (4) và (5) đi sâu vào lý do khiến tảo hôn gia tăng, bao gồm cả yếu tố truyền thống và tác động của mạng xã hội.
  • Sử dụng số liệu, dẫn chứng: Đoạn (1) và (3) cung cấp các con số thống kê cụ thể, lời kể của nhân vật (phó chủ tịch xã, cô bé 14 tuổi), và các kết quả nghiên cứu (UN Women) để tăng tính xác thực và thuyết phục cho lập luận.

Câu 2 (0,75 điểm): Theo văn bản, có những lí do nào khiến hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng trong thời đại công nghệ khi tín hiệu kinh tế đã đáng mừng hơn?

Theo văn bản, mặc dù có tín hiệu kinh tế đáng mừng, hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng do các lí do sau:

  • Định kiến lâu đời và áp lực cộng đồng: Đoạn (4) chỉ ra rằng "những tín hiệu kinh tế đó chưa làm suy chuyển những định kiến lâu đời". Tình trạng tảo hôn hình thành một cách tự nhiên từ "áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15".
  • Định kiến giới nặng nề: "định kiến giới nặng nề về vai trò 'trước sau gì cũng lấy chồng sinh con' của người con gái" cũng là một nguyên nhân được nhắc đến ở đoạn (4).
  • Hôn nhân được thừa nhận một cách tối giản: "hôn nhân được tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ" (đoạn 4) khiến việc kết hôn sớm trở nên dễ dàng.
  • Kết nối mới thông qua Internet và mạng xã hội: Đây là một yếu tố quan trọng trong thời đại số. Mạng xã hội "giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân", bỏ qua các nghi thức truyền thống như "tiếng sáo gọi bạn, những đêm hội, ném-bắt quả pao" (đoạn 5). Đoạn (1) cũng dẫn chứng cụ thể về việc "yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không" qua Facebook.

Câu 3 (1,0 điểm): Nhận xét về vai trò, ý nghĩa của các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được thể hiện ở đoạn (1) và (3) trong văn bản.

Trong văn bản, các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp ở đoạn (1) và (3) đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng:

  • Dữ liệu sơ cấp:
    • Biểu hiện: Là những thông tin được thu thập trực tiếp, ví dụ như lời nhận định của phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia ("Bây giờ có cái Facebook đẩy") và lời chia sẻ của cô bé 14 tuổi tại Vân Hồ ("Vừa yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không").
    • Vai trò, ý nghĩa: Các dữ liệu này mang tính chân thực, sống động,cụ thể hóa vấn đề. Chúng giúp người đọc hình dung rõ ràng hơn về cách thức tảo hôn diễn ra trong thời đại số, đặc biệt là vai trò của mạng xã hội. Lời kể trực tiếp từ những người trong cuộc tăng thêm tính thuyết phụcsức nặng cảm xúc, cho thấy tác động trực tiếp của hiện tượng này lên đời sống cá nhân.
  • Dữ liệu thứ cấp:
    • Biểu hiện: Là những thông tin đã được thu thập và tổng hợp từ các nguồn có sẵn, ví dụ như thống kê của Trung tâm Y tế huyện Vân Hồ (72 cặp tảo hôn năm 2021, 81 ca năm 2022, 53 cặp trong 5 tháng đầu năm 2023), thống kê quy mô toàn quốc năm 2018 (tỉ lệ tảo hôn người Mông 51%), và số liệu của UN Women năm 2015 (hơn 30%).
    • Vai trò, ý nghĩa: Các dữ liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan, khách quan, và có hệ thống về quy mô và xu hướng của vấn đề tảo hôn. Chúng giúp người đọc hiểu được tính nghiêm trọngtính phổ biến của hiện tượng, đồng thời chứng minh rằng tảo hôn không chỉ là vấn đề cá biệt mà là một vấn trạng xã hội cần được quan tâm. Sự so sánh giữa các mốc thời gian và các nguồn khác nhau (thống kê huyện, toàn quốc, UN Women) còn cho thấy sự dai dẳng, phức tạp, và thậm chí là tăng lên của vấn đề, bất chấp những nỗ lực giảm thiểu.

Tóm lại, sự kết hợp giữa dữ liệu sơ cấp và thứ cấp giúp văn bản vừa mang tính thuyết phục cao nhờ các con số và thống kê, vừa tạo được sự đồng cảmhiểu biết sâu sắc về thực trạng thông qua những câu chuyện và lời nhận định trực tiếp.


Câu 4 (0,75 điểm): Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong câu sau: “Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném-bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.”

Biện pháp tu từ điệp ngữ "không cần" được lặp đi lặp lại có hiệu quả mạnh mẽ trong việc nhấn mạnh và làm nổi bật:

  • Sự đối lập và thay đổi nhanh chóng: Điệp ngữ "không cần" lặp lại ba lần ở đầu câu tạo ra một nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, đồng thời nhấn mạnh sự đảo lộn hoàn toàn trong cách thức kết nối hôn nhân. Nó đối lập rõ rệt giữa những nét đẹp truyền thống, những nghi lễ văn hóa lâu đời ("tiếng sáo gọi bạn", "những đêm hội", "ném-bắt quả pao") với thực trạng hiện đại.
  • Tác động mạnh mẽ của mạng xã hội: Việc lặp lại này tập trung sự chú ý vào vế sau của câu, nơi mạng xã hội được chỉ ra là yếu tố "giản lược hóa tất cả". Điều này cho thấy quyền năng to lớn của công nghệ trong việc rút ngắn, thậm chí bỏ qua các giai đoạn tìm hiểu, gắn kết truyền thống.
  • Tính chất đơn giản hóa và nguy cơ: Việc "không cần" những yếu tố truyền thống cho thấy một sự giản lược hóa quá mức, làm mất đi ý nghĩa sâu sắc và giá trị của hôn nhân. Từ đó ngụ ý về những quyết định vội vàng, thiếu chín chắn do sự thiếu vắng các bước đệm cần thiết. Nó thể hiện một sự lo ngại của tác giả về những tác động tiêu cực của Internet đối với vấn đề hôn nhân của giới trẻ.

Tóm lại, điệp ngữ "không cần" không chỉ tạo nhịp điệu cho câu văn mà còn góp phần làm nổi bật thực trạng đáng báo động về sự thay đổi trong cách kết nối và đưa ra quyết định hôn nhân của giới trẻ, đặc biệt là trong bối cảnh tảo hôn gia tăng do ảnh hưởng của công nghệ.


Câu 5 (1,0 điểm): Văn bản “Lời cầu hôn trong thời đại số” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về những ảnh hưởng, áp lực của cộng đồng và định kiến trong đời sống?

Văn bản "Lời cầu hôn trong thời đại số" đã gợi cho tôi nhiều suy nghĩ sâu sắc về những ảnh hưởng và áp lực dai dẳng của cộng đồng và định kiến trong đời sống, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện đại có nhiều thay đổi:

  • Sức ì lớn của định kiến: Điều đáng suy ngẫm nhất là dù kinh tế phát triển, du lịch bùng nổ, và công nghệ hiện đại len lỏi vào từng ngóc ngách, nhưng những định kiến lâu đời vẫn tồn tại bền bỉ và thậm chí lấn át cả những tiến bộ vật chất. Điều này cho thấy rằng sự phát triển kinh tế không đồng nghĩa với sự thay đổi trong tư duy và tập quán xã hội, đặc biệt là ở những vùng cộng đồng còn bảo thủ. Định kiến "trước sau gì cũng lấy chồng sinh con" đối với con gái là một ví dụ rõ rệt, nó ăn sâu vào tiềm thức và trở thành áp lực vô hình nhưng mạnh mẽ.
  • Áp lực từ thế hệ trước: Văn bản chỉ ra rằng "áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15" là một nguyên nhân của tảo hôn. Điều này thể hiện một vòng luẩn quẩn: chính những người từng là nạn nhân hoặc là người thực hành tảo hôn lại vô tình (hoặc hữu ý) duy trì tập tục này cho thế hệ sau. Áp lực này không chỉ là lời nói mà còn là sự "mặc định" trong nếp nghĩ, nếp sống của cả một cộng đồng, khiến các cá nhân khó lòng thoát ra.
  • Sự nguy hiểm của "đơn giản hóa" các giá trị: Việc hôn nhân được "tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ" là một hệ quả đáng lo ngại. Điều này cho thấy khi những giá trị và nghi thức truyền thống bị bỏ qua, bị đơn giản hóa do sự phát triển của công nghệ và sự thiếu vắng giáo dục, các quyết định quan trọng trong đời sống con người trở nên hời hợt, dễ dẫn đến những hệ lụy lâu dài.
  • Mâu thuẫn giữa tiến bộ và bảo thủ: Văn bản vẽ ra một bức tranh mâu thuẫn: một bên là Vân Hồ đang "thai nghén" đô thị, có đường bê tông, du lịch bùng nổ, nhưng mặt khác, tỷ lệ tảo hôn vẫn cao và thậm chí có xu hướng gia tăng. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế-xã hội không tự động giải quyết được các vấn đề xã hội có gốc rễ từ văn hóa và định k...
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội.Câu 2 (4,0 điểm): Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao trong hai đoạn trích sau: “Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm):

Hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội.

Câu 2 (4,0 điểm):

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao trong hai đoạn trích sau:

Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.

Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi Tết. Mỵ cũng chẳng buồn đi.

Bấy giờ Mỹ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nãy Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.

Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.”

(Trích Vợ chồng A Phủ, in trong tập truyện Truyện Tây Bắc, Tô Hoài, NXB Văn học, 1971, tr.135-136)

Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng. Trước ngày cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa.

Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chồng Mao vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau thấy không làm được gì đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi, thương con dâu như con gái nên không đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ông trẻ nhất là Chúng.

(Trích Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, in trong tập truyện ngắn cùng tên của Đỗ Bích Thuý, NXB Văn học, 2021, tr.139-140)

* Vợ chồng A Phủ viết năm 1953, là một truyện ngắn hay của nhà văn Tô Hoài về đề tài Tây Bắc. Truyện kể về cô Mỵ đẹp, có tài thổi sáo và đã có người yêu. Nhà Mỵ nghèo, vì món nợ của cha mẹ mà bị nhà thống lý Pá Tra lừa bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Hồi mới về làm dâu, Mỵ còn cảm thấy đau khổ và muốn chết, nhưng thương bố, Mỵ quay trở lại làm dâu nhà Pá Tra. Từ đó Mỵ dần quen khổ, mỗi ngày một lầm lì, không nói cho đến khi mùa xuân đến...

* Tiếng đàn môi sau bờ rào đá được Đỗ Bích Thuý viết vào khoảng những năm 2000. Cô Mao đẹp người đẹp nết lấy anh Chúng vì Chúng là người duy nhất chồng đủ bạc đủ rượu. Tuy không có con với Mao song Chúng vẫn giữ lại Mao ở lại nhà làm bổn phận mẹ già trông nom con cái của Chúng với người đàn bà khác. Trước cuộc sống đi ngang về tắt của chồng, Mao bắt đầu khắc khoải về tiếng đàn môi của người thương...

1
30 tháng 5

thưa cô


Câu 1: Nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội

Mạng xã hội đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại, mang lại vô vàn tiện ích nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nguy cơ "giản lược hoá những kết nối cần thiết". Điều này thể hiện rõ nhất ở sự rút ngắn các giai đoạn giao tiếp, tìm hiểu, thậm chí là quyết định những vấn đề trọng đại như hôn nhân. Thay vì những buổi gặp gỡ trực tiếp, những lần trò chuyện sâu sắc hay các nghi thức truyền thống đòi hỏi thời gian và sự gắn kết, giờ đây chỉ cần vài cú chạm, vài tin nhắn, con người đã có thể đưa ra những phán đoán, kết luận vội vàng về nhau. Hậu quả là các mối quan hệ trở nên hời hợt, thiếu chiều sâu, dễ tan vỡ. Sự giản lược này không chỉ tước đi những trải nghiệm quý giá trong quá trình xây dựng tình cảm mà còn làm mất đi ý nghĩa của sự gắn bó bền chặt, bởi lẽ một "kết nối" được hình thành quá nhanh chóng thường thiếu đi nền tảng vững chắc của sự thấu hiểu và sẻ chia. Để giữ gìn những giá trị đích thực trong các mối quan hệ, chúng ta cần tỉnh táo và biết cách cân bằng giữa thế giới ảo và đời thực.


Câu 2: So sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao

Tô Hoài và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ khác nhau, nhưng cả hai đều đã khắc họa thành công số phận người phụ nữ miền núi trong tác phẩm của mình. Nếu Mỵ trong "Vợ chồng A Phủ" là hình ảnh tiêu biểu cho kiếp người bị đày đọa dưới ách cường quyền, thần quyền thời Pháp thuộc, thì Mao trong "Tiếng đàn môi sau bờ rào đá" lại mang nỗi đau đớn, khắc khoải của người phụ nữ trong bối cảnh xã hội đổi thay. Dù khác biệt về thời đại và hoàn cảnh, tâm trạng của Mỵ và Mao lại có những điểm tương đồng và khác biệt sâu sắc, phản ánh chung bi kịch và khát vọng sống của những người phụ nữ vùng cao.


I. Những điểm tương đồng trong tâm trạng

Cả Mỵ và Mao đều trải qua những bi kịch cuộc đời dẫn đến tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng, đồng thời vẫn ấp ủ một khát vọng sống tiềm tàng.

Trước hết, đó là tâm trạng đau khổ, u uất vì bị tước đoạt tự do và hạnh phúc cá nhân. Mỵ bị nhà thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ, cuộc đời bị trói buộc trong cái nhà tù không có song sắt: "Mỵ cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Nàng sống như một cái bóng, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", mất đi ý niệm về thời gian và sự sống. Nỗi đau của Mỵ không chỉ là sự đày đọa thể xác mà còn là sự tàn phá tâm hồn, khiến nàng trở nên vô cảm, chai sạn trước mọi thứ xung quanh. Tương tự, Mao cũng rơi vào cảnh sống không hạnh phúc. Tuy không bị "bắt về" như Mỵ, nhưng cuộc hôn nhân của Mao với Chúng lại dựa trên "đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu" của nhà chồng, chứ không phải tình yêu đích thực. Nàng chứng kiến cảnh chồng "đi ngang về tắt" với người đàn bà khác, trong khi mình phải chấp nhận phận "mẹ già trông nom con cái của Chúng với người đàn bà khác". Nỗi đau của Mao là sự tủi nhục, đắng cay khi hạnh phúc gia đình tan vỡ, bản thân bị gạt ra lề cuộc sống riêng của chồng, dù vẫn ở trong cùng một mái nhà. Cả hai nhân vật đều trải qua sự cô độc, lẻ loi trong chính căn nhà của mình, nơi lẽ ra phải là tổ ấm.

Thứ hai, dù trong cảnh tuyệt vọng, cả Mỵ và Mao đều có những khoảnh khắc bừng tỉnh, nhận ra bi kịch của mình và ấp ủ khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Ở Mỵ, điều này thể hiện rõ nhất vào đêm tình mùa xuân. Khi men rượu thấm vào và tiếng sáo gọi bạn lửng lơ bay ngoài đường, lòng Mỵ "phơi phới trở lại", nàng nhớ về quá khứ tươi đẹp, nhớ về những ngày tháng tự do, hồn nhiên. "Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi." Chính sự trỗi dậy của khao khát sống, khao khát tình yêu đã khiến Mỵ có ý định phản kháng, dù chỉ là ý nghĩ "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa." Đây là biểu hiện của một sức sống mãnh liệt, không chấp nhận cái chết mòn của tâm hồn. Với Mao, tiếng đàn môi từ "sau hẻm núi", "từ rất xa kia" là sợi dây kết nối nàng với quá khứ, với mối tình không thành. Tiếng đàn môi "buồn rầu, trách móc" đã lay động tâm hồn Mao, khiến nàng "lặng lẽ khóc", nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mặc dù văn bản không trực tiếp miêu tả khát vọng phản kháng mãnh liệt như Mỵ, nhưng sự "khắc khoải về tiếng đàn môi của người thương" chính là biểu hiện của một tâm hồn vẫn còn nhạy cảm, vẫn còn khao khát được yêu thương, được sống một cuộc đời trọn vẹn, không chấp nhận hiện thực nghiệt ngã.


II. Những điểm khác biệt trong tâm trạng

Dù có những điểm tương đồng, tâm trạng của Mỵ và Mao vẫn có những nét riêng biệt do hoàn cảnh xã hội và tư tưởng của mỗi tác giả.

Điểm khác biệt rõ rệt nhất nằm ở tính chất của sự phản kháng và mức độ ý thức về số phận. Tâm trạng của Mỵ, đặc biệt là vào đêm tình mùa xuân, cho thấy một sự bùng nổ của khát vọng sống và ý chí phản kháng mạnh mẽ. Từ chỗ "vô cảm", Mỵ đã có ý nghĩ muốn chết để thoát khỏi đau khổ, rồi sau đó là hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn thoát. Sự phản kháng của Mỵ mang tính tự giải thoát, tự cứu mình và có tính bước ngoặt, dẫn đến một sự thay đổi lớn trong cuộc đời. Nàng ý thức rõ ràng về sự bất công, về việc mình bị tước đoạt hạnh phúc. Ngược lại, tâm trạng của Mao chủ yếu là sự khắc khoải, dằn vặt nội tâm và nỗi buồn tủi. Tiếng đàn môi dù có sức lay động lớn nhưng chưa dẫn đến một hành động phản kháng hay ý chí tự giải thoát rõ ràng như Mỵ. Mao vẫn bị kẹt trong sự chấp nhận số phận, dù đau khổ. Nỗi buồn của Mao mang tính chất trầm lắng, kéo dài hơn là một sự bùng nổ. Sự khác biệt này có thể lí giải một phần bởi bối cảnh thời đại: Mỵ sống trong thời kì vùng lên đấu tranh của dân tộc, còn Mao sống ở thời kì hòa bình, khi vấn đề cá nhân, hạnh phúc gia đình trở thành trọng tâm.

Thứ hai, cảm thức về hạnh phúc và tình yêu cũng có những sắc thái riêng. Mỵ nhớ về tiếng sáo gọi bạn của "bao nhiêu người mê" theo nàng, nhớ về tình yêu đôi lứa tự do, hồn nhiên. Đó là một tình yêu trọn vẹn, được thể hiện công khai và được cộng đồng chấp nhận. Nỗi nhớ ấy là động lực trực tiếp để Mỵ khao khát thoát khỏi cảnh địa ngục trần gian. Còn Mao, tiếng đàn môi cũng gợi về tình yêu nhưng là một tình yêu đã mất, một sự nuối tiếc, một vết thương lòng. Tiếng đàn môi "buồn rầu, trách móc" như một lời than thở cho một mối tình dang dở. Nỗi khắc khoải của Mao mang sắc thái của sự chấp nhận một bi kịch đã an bài, dù trong lòng vẫn còn vết thương. Mỵ khao khát giành lại hạnh phúc đã mất, còn Mao dường như chỉ còn biết khắc khoải về một hạnh phúc không bao giờ thuộc về mình.


III. Tổng kết

Tóm lại, dù cùng chia sẻ những nỗi đau chung của người phụ nữ miền núi bị áp bức, tước đoạt hạnh phúc, nhưng tâm trạng của Mỵ và Mao lại có những nét riêng biệt sâu sắc. Mỵ là biểu tượng của sức sống tiềm tàng và khát vọng phản kháng mạnh mẽ, bùng cháy để tự giải thoát. Mao là hình ảnh của sự khắc khoải, day dứt trước một số phận đã an bài, thể hiện nỗi đau âm ỉ, dai dẳng. Qua đó, cả Tô Hoài và Đỗ Bích Thúy đều đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của người phụ nữ, đồng thời khẳng định giá trị của khát vọng tự do và hạnh phúc, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

xin cô tick ạ