K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 8 2019

Thảo quả là đặc sản của núi rừng Tây Bắc, là một trong những dược liệu, hương liệu quý giá.Trong bài văn này, tác giả chỉ nói đến hương thơm hoa trái, sức sống và vẻ đẹp của thảo quả rừng Đản Khao, Lào Cai.Thảo quả khi đã vào mùa, thì ngọn gió tây “lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi...”. Lúc ấy, những thôn xóm Chin San được ướp trong hương thảo quả “ngọt lựng, thơm nồng”. Cả một không gian đất trời, núi rừng đều nồng nàn hương thảo quả: "Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm”. Một cách viết tài hoa. Câu văn rất ngắn. Như nhún nhảy, điệu đà. Chữ “thơm” được điệp lại nhiều lần.Hương thảo quả không chỉ ban phát cho thiên nhiên, cho gió, cho cây cỏ, cho đất trời mà còn là tặng phẩm cho những con người đã chịu thương chịu khó gieo trồng nên cây thảo quả: “Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn”.Khi thảo quả trên rừng Đản Khao “đã chín nục” thì hương vị nó đến mê say ngây ngất kì lạ đến như thế. Phải chăng tác giả đã từng sống nhiều năm nơi núi rừng Đản Khao nên mới viết thật hay, thật say sưa về hương trái thảo quả như vậy ! Khi thảo quả chín rừng xanh được đánh thức đỏ rực lên tuyệt đẹp: “Dưới tầng đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng”. Hình ảnh ngọn lửa trong đoạn vẫn tả trái thảo quả chín rất hay và sáng tạo. Câu kết sáng bừng ngọn lửa ấy:“Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo qua như những đốm lửa hồng ngày qua ngày lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt”.Trong chúng ta đã mấy ai được ngắm nhìn rừng thảo quả trong mùa xuân, rừng thảo quả vào mùa ? Đọc bài văn, tả cảm thấy núi rừng Tây Bắc giàu đẹp mà thảo quả là một đặc sản quý. Ta càng hiểu hơn câu tục ngữ “Rừng vàng biển bạc” mà ông cha ta thường nhắc tới.

Ta có thể thấy được hương thơm của loại quả này được tác giả trân trọng. Bằng cách sử dụng điêu luyện biện pháp lặp từ, sự nhấn mạnh về câu chữ làm nổi bật. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, từ “ thơm” được lặp rất nhiều lần, nhưng là các trạng thái khác nhau tùy vào trường hợp muốn nêu bật hương thơm thanh mát, như niềm vui của người đi rừng, ẩn vào cùng với hương thơm đất trời, gió còn tác động đưa mùi hương lan tỏa lan rộng để chúng thơm mãi với thời gian. Thảo quả còn được tả là một loại cây phát triển rất nhanh từ bắt đầu với sự sống là những mầm sống hạt, rất nhiều cụm từ về sự trôi chảy của thời gian được tác giả sử dụng cùng với sự trưởng thành tạo quả của cây. Sản phẩm của cây là một loại quả rừng rất quý. Điểm đặc biệt của cây thảo quả là chỉ phát triển bình thường và cho ra quả nếu được trồng dưới những tán cây lớn trong rừng nguyên sinh. Loại quả này có màu đỏ rất ấn tượng mọc san sát nhau và chín thành từng chùm đỏ chót dưới gốc nhìn rất đẹp như là màu nắng hay màu lửa. Cả rừng bỗng như ấm hơn khi bới gốc thu hoạch những nương thảo quả đến vụ. Quả xinh chúm chím được tác giả ví như những ngọn lửa đỏ hồng. Loại quả này ăn vừa ngon miệng, từ lâu lại được sử dụng như một loại vị thuốc chứa rất nhiều thành phần dinh dưỡng giúp chữa nhiều bệnh và có giá trị, phong phú thêm nguồn dược liệu quý của Việt Nam. Có lẽ vì vậy, cây rừng tự nhiên trong những nương thảo quả luôn được người dân tự nguyện bảo vệ nghiêm ngặt từ đời này sang đời khác.

15 tháng 8 2019

Tham gia event này đi mọi người https://olm.vn/hoi-dap/detail/227766827875.html

Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt

Truyền thuyết kể lại rằng vua Hùng bắt đầu từ thời xã hội Văn Lang tồn tại. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.

Kinh đô của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang tuy nhiên các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên mới chép kinh đô nước Văn Lang là Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.

Công cụ là đồng thau trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là phổ biến nhất.

Ngoài ra còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã xuất hiện.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam" thì 18 vị vua Hùng là:

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm

Tuy nhiên ngày nay, qua khảo chứng, các nhà sử học phần đông cho rằng chuyện 18 đời Hùng vương là không có thật. Con số 18 chỉ mang tính tượng trưng.

Nếu xét theo thời gian trị vì kéo dài hơn 2000 năm mà chỉ có 18 đời vua thì đây là những con số rất khó thuyết phục; mặc dù ghi chép như vậy để “nêu rõ quốc thống” nhưng các sử gia đều tỏ ý nghi ngờ điều này.

Nhà sử học Ngô Thì Sĩ viết: “Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được” (Việt sử tiêu án).

Còn trong cuốn Việt Nam sử lược, nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết: “…Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là người đời thượng cổ nữa thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy”.

Khác với ghi chép của sử sách và truyền thuyết dã sử, các nhà nghiên cứu cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 – 400 năm và niên đại kết thúc là khoảng năm 208 TCN chứ không phải là năm 258 TCN.

Cuốn Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất của nước ta còn giữ được đến nay chép rằng: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.

Không rõ tác giả Đại Việt sử lược căn cứ vào đâu để viết lên như vậy, nhưng đưa ra thời điểm mà nhà nước Văn Lang hình thành vào khoảng thế kỷ VII TCN, tương ứng với giai đoạn Đông Sơn là phù hợp với những kết quả nghiên cứu hiện nay, và con số 18 vua Hùng cai trị trong khoảng 300 – 400 năm được nhiều người chấp nhận hơn, cho dù không thể khẳng định được rằng nước Văn Lang thực sự có đúng 18 đời vua Hùng.

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: Về con số 18 đời vua, cũng chính Đại Việt sử lược là tác phẩm đầu tiên đề cập tới

Về con số 18 đời vua, cũng chính Đại Việt sử lược là tác phẩm đầu tiên đề cập tới và dường như dữ kiện đó được nhiều tác phẩm sử học, khảo cứu sau này ghi chép theo, thậm chí các tác phẩm ở dạng diễn ca cũng viết:

Xưng Hùng Vương, cha truyền con nối,
Mười tám đời một mối xa thư,
Cành vàng lá ngọc sởn sơ,

Nước xưng một hiệu, năm dư hai nghìn.

(Thiên Nam minh giá)

Hoặc như một số câu đối ca ngợi về thời đại Hùng Vương cũng đề cập đến có số 18. Thí dụ:

Thập bát truyền vi quân vi vương, trùng xuất tiên nga duy mạt tạo

Ngũ thập tử quy sơn quy hải, biệt trung thần nữ thiệu anh phong.

Nghĩa là:

Mười tám đời truyền làm quân làm vương, hai vị tiên nga cuối dòng họ

Năm mươi con lên núi, xuống biển, một nàng thần nữ nối ngôi cha.

Hay như câu đối:

Nam thiên thập bát thế xa thư, sơ đầu đệ nhất thánh.

Tây nhạc ức vạn niên hương hỏa, thượng đẳng tối linh thần.

Nghĩa là:

Trời Nam 18 đời truyền kiếp, buổi đầu đệ nhất thánh.

Tây nhạc ức vạn năm hương hỏa, thượng đẳng tối linh thần.

Chỉ có 18 đời vua mà cai trị 2.622 năm đã gây ra không ít hoài nghi, tuy nhiên trong các bản Ngọc phả, thần tích như bản Ngọc phả Hùng Vương được soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (980) đời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nhà Tiền Lê thì không phải là 18 đời vua Hùng mà là 18 nhành/ngành với tổng cộng 180 đời vua:

Dĩ thượng Hùng đồ thập bát diệp, tỷ phú truyền cơ thái bảo, nhất bách thập bát đại đế vương tốn vị nhất thống sơn hà

Nghĩa là:

Mười tám nhành nhà Hùng, ngọc tỷ và ấn tín truyền quyền đại bảo trong khoảng 180 đời nhường ngôi đế vương, một mối non sông xa thư trị nước”.

Nhiều tác phẩm khác như Tân đính Lĩnh Nam chích quái của nhà sử học thời Hậu Lê là Vũ Quỳnh cũng viết là 18 ngành vua Hùng.

Trong Ngọc phả Hùng Vương thì chữ “đời” phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự có nghĩa là không phải một đời người mà là “một dòng gồm nhiều đời”. Hiện ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa” thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế/chi/nhành Hùng Vương thứ 18.

Xung quanh vấn đề này, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng với người Việt số 9 là con số thiêng nên các bội số của nó như số 18 cũng thiêng tương tự như vậy, do đó con số 18 đời Hùng Vương chỉ là con số biểu trưng, ước lệ mà thôi…

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: Trong Ngọc phả Hùng Vương thì chữ “đời” phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự có nghĩa là không phải một đời người mà là “một dòng gồm nhiều đời”

Như vậy con số 18 không phải là 18 đời vua Hùng mà là 18 ngành, mỗi ngành gồm nhiều đời vua mang chung vương hiệu, khi hết một nhành mới đặt vương hiệu mới. Bên cạnh đó thời gian trị vì cũng như tuổi thọ của một vị vua có thể hiểu là tuổi của nhiều đời vua và số năm trị vì của nhiều đời vua thuộc một ngành cộng lại vì thế thời gian trị vì hơn 2.622 năm của các vua Hùng không có gì là hoang đường cả. Vì vậy mới có câu rằng:

Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương,

Nhất thống sơn hà thập bát vương.

Dư bách hệ truyền thiên cổ tại,

Ức niên hương hoả ức niên phương.

Nghĩa là:

Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương

Mười tám ngành vua, mười tám chương.

Bách Việt sơn hà muôn thuở đó,

Đời đời đèn nến nức thơm hương.

Bản Thần tích xã Vi Cương (Phú Thọ) ghi chép khá rõ về các đời vua với những thông tin liên quan, theo đó 18 ngành vua Hùng có tất cả 180 đời vua nối nhau trị vì: “Tính trong 18 chi đời vua Hùng truyền ngôi đại bảo cho 180 đời đế vương, sơn hà quy về một mối, kiến lập được 122 thành điện. Tổng cộng các năm của 18 đời Thánh vương di truyền ngôi cho các triều thánh tử thần tôn là 2.622 năm, thọ 8.678 tuổi, sinh được 986 chi, các hoàng tử công chúa sinh được 14.378 cháu chắt miêu duệ, cai trị khắp đầu non góc biển trong nước, vạn cổ trường tồn, mãi mãi không bao giờ dứt”.

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: “Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông"

Viết về họ Hồng Bàng, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim có chép: “Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.

Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, để một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.

Sau đó, vẫn theo sách trên, Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.

Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công nguyên (TCN). Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN.

Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: Các triều đại vua chúa bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung bình khoảng 10-20 năm, như Chu Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; Đời sống con người thời đó trung bình chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân, rồi Hùng vương vào sử sách nước Việt. Trước thời “Đại Việt sử ký toàn thư”, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và “Đại Việt sử lược” với tác giả khuyết danh, ra đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên sử dụng khi soạn “Đại Việt sử ký toàn thư”. “Đại Việt sử lược” thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan nhà Thanh tìm được ở một thư khố bên Tàu. Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như “Phù Đổng thiên vương”, “Sơn Tinh Thủy Tinh”, thật ra được Ngô Sĩ Liên nhập vào bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như “Việt điện U Linh tập”” và Lĩnh Nam chích quái, xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14.

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: Đặc biệt Lĩnh Nam Chích Quái, do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam

Đặc biệt Lĩnh Nam Chích Quái, do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (722-221 TCN).

Trở lại với năm đầu và năm cuối của thời Hồng Bàng. Trần Trọng Kim dùng thẳng tài liệu của “Đại Việt sử ký toàn thư” (2879-258 TCN) – nhưng đặt thêm một dấu hỏi (?) sau năm khởi đầu: 2879 TCN. Bởi thật ra, chính Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đề cập đến 18 đời ở bên ngoài phần Ngoại kỷ (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Đặc biệt Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối chương về thời Hồng Bàng, bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ:

“Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế”. Còn Sơn Tinh Thủy Tinh thì ông cho: “rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi”. Ngô Sĩ Liên đã đoán rất đúng: Khi nhét các truyền tích vào cổ sử, ông đã tiếp tục gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho mãi đến ngày nay.

Mặc dù đã căn dặn kỹ: tin sách chẳng bằng không có sách (tận tín thư bất như vô thư). Mãi cho đến cuối thế kỷ 20, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa đến một số điều chỉnh về năm tháng. Trong đó niên đại kết thúc đời Hồng Bàng (và bắt đầu thời Thục Phán) được dời về năm 208 TCN.

Đặc biệt, gần đây, họ phối hợp những luận cứ dựa trên các khám phá khảo cổ học về thời đại văn minh Đông Sơn với một đoạn ngắn của quyển “Đại Việt sử lược”, thất truyền lâu năm nhưng về sau tìm lại được ở thời Mãn Thanh (bên Tàu): Đền đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối kết nút.

Truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng vương”. Xin chú ý đến một vài điểm: “Đại Việt sử lược” vẫn cho thời đại Hùng vương kéo dài 18 đời. Không có ghi chi tiết cha mẹ của Hùng Vương. Tức “giấy khai sinh” của Hùng vương không có tên Lạc Long Quân và Âu Cơ. Vua Hùng thứ nhất khởi đầu sự nghiệp vào khoảng năm 688 TCN, kết thúc vào năm 208 TCN. Bình quân 26 năm cho mỗi một đời vua.

Chính sự dùng dây kết nút để… truyền thông với nhau. Tức không có chữ viết. Không có sử sách gì hết. Tức không giống như văn minh Hoa Hạ ở khu vực bình nguyên sông Hoàng Hà. Tóm tắt: Theo “Đại ViếtSử ký toàn thư”, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN – Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và “Đại Việt sử lược”, 18 đời Hùng vương: khoảng 688-208 TCN.

1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).

2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).

3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.

5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.

6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.

7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.

8. Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.

9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.

10. Chi Ất - Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr.TL)

11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.

12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr.TL Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.

15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu

16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - ‘NgườI anh hùng làng Dóng’ Cao Xuân Đỉnh (NxbKHXH 1969 trang 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu

17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu

18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đờI vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì - Hà Nội có bài vị « Tam Vị Quốc Chúa », ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.

Tổng cộng là 2621 năm từ 2879 đến 258 tr. TL

Như vậy, họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với vương hiệu Hùng Vương, không phải chỉ có 18 đời (18 ông vua) mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua. Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại gần 3000 năm của thời đại Hùng Vương.

Hùng Vương là ai và lịch sử các Vua Hùng: Đền Hùng hiện nay trong ngôi đền chính, có một bài vị chung, thờ các vị Vua Hùng, có hàng chữ « Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị »

Đền Hùng hiện nay trong ngôi đền chính, có một bài vị chung, thờ các vị Vua Hùng, có hàng chữ « Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị ». Do tục thờ cúng tổ tiên, chỉ chờ vị khai sáng đầu tiên, nên chữ « Thập bát thế » có thể hiểu là 18 Vương hiệu của các vị Tổ đầu tiên của 18 chi Hùng Vương, đã thay nhau cầm quyền trên đất nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người Việt chúng ta ngày nay.

Câu chuyện vua Hùng từ truyền thuyết tới lịch sử

Dân tộc ta có một hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt: vừa bước vào thời kỳ dựng nước chưa được bao lâu thì mất nước. Hơn một nghìn năm bị đô hộ, lịch sử văn hiến của người Việt đã hầu như bị xóa mất mọi dấu vết về một thời văn minh của dân tộc. Do vậy lịch sử dựng nước của dân tộc ta không được ghi chép để truyền lại. Điều duy nhất mà những thế lực đô hộ không thể xóa được là ký ức của nhân dân về lịch sử của cha ông mình. Chính vì lẽ đó mà thời kỳ lập quốc của dân tộc Việt Nam, trong một thời gian dài, chỉ được phản ánh trong các huyền thoại hoặc truyền thuyết dân gian. Những câu chuyện kể về 18 đời vua Hùng nối nhau trị nước hay những truyền thuyết về sự tích “bánh chưng, bánh dầy”, sự tích “trầu cau”… liên quan đến phong tục tập quán và cuộc sống của người xưa là những mảng màu còn giữ được trong ký ức của nhân dân, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác về thời đại Hùng Vương. Huyền thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh và thiên anh hùng ca Thánh Gióng là những hình tượng khái quát do nhân dân sáng tạo nên để truyền cho nhau về sự nghiệp của cha ông thời mở nước. Những “pho sử” không thành văn này đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt trong suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc.

Sau khi giành được độc lập, đất nước ta bước vào kỷ nguyên phục hưng và phát triển

Sau khi giành được độc lập, đất nước ta bước vào kỷ nguyên phục hưng và phát triển. Nhu cầu nhận thức về nguồn gốc và ý thức tự tôn dân tộc và thôi thúc các nhà sử học yêu nước tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương. Đến thời Trần – Lê những truyền thuyết và huyền thoại bấy lâu chỉ lưu truyền trong dân gian lần đầu tiên được sưu tầm, biên khảo và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn. Các bộ sách Việt điện u linh của Lý tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thể Pháp lần lượt ra đời. Đặc biệt, đến thế kỷ XV, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chính thức đưa những tư liệu dân gian đó vào bộ chính sử đồ sộ, do ông và các sử thần triều Lê biên soạn. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã dành riêng một kỷ đặt tên là “Kỷ Hồng Bàng” để trình bày một cách có hệ thống các truyền thuyết mà ông tập hợp được với một diễn biến thế phổ: Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Hùng Vương. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra những niên đại tuyệt đối cho thời đại lịch sử này. Theo đó, Kinh Dương Vương (ông nội của Hùng Vương thứ nhất) lên ngôi vào thời Chu Noãn Vương thứ 57(?) (năm 2879 trước Công nguyên – TCN) và năm cai trị cuối cùng của Hùng Vương thứ 18 là năm 258 TCN. Nhưng sự cố gắng chứng minh Việt Nam có lịch sử văn minh lâu đời của Ngô Sĩ Liên không khỏi gây ra sự băn khoăn, hoài nghi của các nhà sử học thuộc các thời đại sau. Ông viết như vậy, nhưng không nêu ra được những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Chính bản thân ông theo sự trình bày những điều trên cũng phải hạ bút viết câu: “Hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi”.

Quả thực, những điều Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử đều là huyền thoại và truyền thuyết. Các chuyên gia về văn học dân gian thừa nhận rằng các truyền thuyết và huyền thoại luôn chứa đựng trong nó những cốt lõi lịch sử. Nhưng đó không phải là lịch sử. Không thể dựa vào truyền thuyết để xác định niên đại tuyệt đối cho các sự kiện lịch sử. Vả lại khung niên đại về thời gian trị vì của 20 ông vua thời dựng nước do Ngô Sĩ Liên đưa ra lên tới 2622 năm (2879 – 258 tr.CN) là điều phi lý, không thể chấp nhận. trong khoảng thời gian đó, mỗi ông vua trung bình phải cai trị tới hơn 130 năm.

15 tháng 8 2019

Thảo quả là đặc sản của núi rừng Tây Bắc, là một trong những dược liệu, hương liệu quý giá.
 
Trong bài văn này, tác giả chỉ nói đến hương thơm hoa trái, sức sống và vẻ đẹp của thảo quả rừng Đản Khao, Lào Cai.
 
Thảo quả khi đã vào mùa, thì ngọn gió tây “lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi...”. Lúc ấy, những thôn xóm Chin San được ướp trong hương thảo quả “ngọt lựng, thơm nồng”. Cả một không gian đất trời, núi rừng đều nồng nàn hương thảo quả: "Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm”. Một cách viết tài hoa. Câu văn rất ngắn. Như nhún nhảy, điệu đà. Chữ “thơm” được điệp lại nhiều lần.
 
Hương thảo quả không chỉ ban phát cho thiên nhiên, cho gió, cho cây cỏ, cho đất trời mà còn là tặng phẩm cho những con người đã chịu thương chịu khó gieo trồng nên cây thảo quả: “Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn”.
 
Khi thảo quả trên rừng Đản Khao “đã chín nục” thì hương vị nó đến mê say ngây ngất kì lạ đến như thế. Phải chăng tác giả đã từng sống nhiều năm nơi núi rừng Đản Khao nên mới viết thật hay, thật say sưa về hương trái thảo quả như vậy !
 
Thảo quả là một loài cây có một sức sống rất mãnh liệt, sự sinh sôi mạnh mẽ. Chỉ sau một năm gieo trồng, cây thảo quả đã “lớn cao tới bụng người”. Chỉ một năm sau nữa, khi cây thảo quả “lên hai tuổi” thì từ một thân lẻ “thảo quả đâm thêm hai nhánh mới”. Mùa xuân đến, thảo quả ngày một thêm tươi tốt, “thoáng cái, dưới bóng râm lan tỏa nơi tầng rừng thấp, vươn ngọn, xòe lá, lấn chiếm không gian”. Ma Văn Kháng sử dụng rất đắt một số từ ngữ để đặc tả sự sinh sôi nhanh chóng, mạnh mẽ của thảo quả: “thoáng cái, sầm uất, lan tỏa, vươn ngọn, xòe lá, lấn chiếm”. Người đọc cảm thấy mình như được ngắm nhìn rừng cây thảo quả trong mùa xuân.
 
Hoa trái thảo quả được kết tinh một cách “âm thầm”, “kín đáo’' và “lặng lẽ”. Hoa thảo quả không nảy trên cành cây, ngọn cây như các loài hoa cây trái khác mà lại “nảy dưới gốc cây kín đáo và lặng lẽ”. Trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa “khép miệng bắt đầu kết trái”.
 
Khi thảo quả chín rừng xanh được đánh thức đỏ rực lên tuyệt đẹp: “Dưới tầng đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót,  như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng”. Hình ảnh ngọn lửa trong đoạn vẫn tả trái thảo quả chín rất hay và sáng tạo. Câu kết sáng bừng ngọn lửa ấy:
 
“Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo qua như những đốm lửa hồng ngày qua ngày lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt”.
 
Trong chúng ta đã mấy ai được ngắm nhìn rừng thảo quả trong mùa xuân, rừng thảo quả vào mùa ? Đọc bài văn, tả cảm thấy núi rừng Tây Bắc giàu đẹp mà thảo quả là một đặc sản quý. Ta càng hiểu hơn câu tục ngữ “Rừng vàng biển bạc” mà ông cha ta thường nhắc tới.

Mẹ cấm nó mua cuốn sách to bự dày đặc, tất nhiên là tốn tiền không kém, nó lựa dịp đi chơi với bạn mua luôn, kèm theo một cuốn sách nữa dành cho mẹ, nhưng cũng tất nhiên, là cuốn nó thích.Mẹ cấm nó chơi video game, chả sao, sinh nhật nó, bạn bè tặng nó tới mấy bộ. Đương nhiên, nó vịn cớ bạn đã có lòng tặng, để đó chi cho chật nhà, rồi cứ dịp ở nhà một mình nó lại lôi ra...
Đọc tiếp

Mẹ cấm nó mua cuốn sách to bự dày đặc, tất nhiên là tốn tiền không kém, nó lựa dịp đi chơi với bạn mua luôn, kèm theo một cuốn sách nữa dành cho mẹ, nhưng cũng tất nhiên, là cuốn nó thích.

Mẹ cấm nó chơi video game, chả sao, sinh nhật nó, bạn bè tặng nó tới mấy bộ. Đương nhiên, nó vịn cớ bạn đã có lòng tặng, để đó chi cho chật nhà, rồi cứ dịp ở nhà một mình nó lại lôi ra "cày".

Mẹ bực mình nó kinh khủng, đã bao nhiêu lần nói mà mặt nó vẫn cứ trơ ra, môi nó vẫn cứ cong lên, cứ loắng nhoắng cãi, thôi thì, mẹ không thèm nói nữa!

 

Mẹ không thèm nói nữa ! , đã bao nhiêu lần mẹ nói câu đó rồi nhỉ ?

Và rồi, khi năm học đầu tiên tại cấp Ba đang đến gần, nó bỗng nảy ra ý tưởng...
"Mẹ! Con ứng cử làm lớp trưởng lớp mới nha!"
"Hả?" Mẹ nghe như sét đánh ngang tai, làm sao con bé đỏng đảnh, nhạy cảm, cứng đầu này tự dưng lại muốn làm lớp trưởng?
"Không được đâu nhé! Con không đủ tố chất, làm lớp trưởng cực lắm con!"
"Không đủ thì rèn, vả lại làm lớp trưởng, con sẽ được thầy cô ưu tiên, rành những phong trào ở trường, làm quen với các bạn nhanh hơn, oai lắm chứ, mẹ?"
"Không không không..."

Tối hôm trước khi nó đi nhận lớp, mẹ cứ nơm nớp lo, cứ sợ nó tự giơ tay đề cử mình, tự rước rắc rối vào nó, một đứa còn chưa hình dung nổi thời khóa biểu cấp Ba, lịch học thêm sẽ dày đặc cỡ nào, chưa nghĩ hết được khả năng tiếp thu bài vở của mình tệ ra sao, nó chưa bao giờ làm lớp trưởng cả, lúc nào cũng thờ ơ với mọi thứ xung quanh, thì làm sao mà đảm đương toàn bộ việc lớp, mà trách nhiệm với cả một tập thể được?

Hôm nhận lớp, trong khi từng chức vụ trong ban cán sự được lần lượt trao vào tay những ứng cử viên "có vẻ là tiềm năng", con bé cứ hồi hộp, quả thật nó cũng ngại giơ tay, ngại ánh mắt của các bạn nhìn nó, nhưng nó vẫn không mảy may tự ti về khả năng của mình. Giơ hay không giơ? Chỉ có mỗi cơ hội này để thử sức, để được một lần trở nên oai ơi là oai. Giơ không đây? Đến khi cô chủ nhiệm hỏi "Còn chức lớp trưởng? Làm lớp trưởng dễ ợt à, chỉ điểm danh các bạn, giữ các bạn im lặng trong lúc chào cờ, quản l..."

"Con". Cánh tay nó chĩa thẳng băng lên trần nhà, giọng nói nhỏ bé nhưng không hề run rẩy. Cả căn phòng yên ắng, những ánh mắt đổ dồn về phía nó, con bé cảm thấy tim mình đập những nhịp rộn ràng, nó biết mặt mình giờ đỏ y chang những mạch máu đang dồn dập lên não nó. Liệu có ai còn tranh chức với nó không?

Không ai dám giơ tay nữa.
Cô chủ nhiệm vui mừng : "Con hả? Vậy con đọc tên với số điện thoại cho cô nha!"


Và thế là nó làm lớp trưởng.


Khỏi phải nói mẹ phẫn nộ đến mức nào.

"Mẹ hết nói nổi con rồi. Con lo cho thân con còn chưa xong, học hành chả giỏi giang gì, các bạn lại thông minh hơn mình gấp nhiều lần, có kham nổi trọng trách này không? Rồi lớp ồn, lớp không hợp tác, có nhiêu là đổ hết lên lớp trưởng đó."
"Mẹ khuyên con nên từ chức ngay đi, trước khi con thấy hối hận."
Con bé nghĩ, "Nhỡ giơ tay mà từ chức liền thì quê chết, còn gì hình tượng với các bạn mới nữa. Chi bằng cứ thử, được đâu hay tới đó, mình chỉ cần cố hết sức thôi..."

Con bé cứng đầu,

Con bé lì lợm kinh khủng,

Vì thế nó cố gắng thật.

Trong những tuần đầu tiên, nó xông xáo, cẩn thận ghi chép, quan tâm đến tất cả thành viên, chịu khó nhắc nhở lớp giữ trật tự, đồng thời chịu khó xem trước bài mới, dò từng thuật ngữ không hiểu...

Họp phụ huynh đầu năm, mẹ không tin vào tai mình khi nghe cô khen nó thực hiện vai trò đứng đầu rất tốt.

Con bé nghe mẹ kể, khoái chí lắm, nghĩ rằng năm học này mình sẽ thật oai, thật nổi tiếng trong trường cho mà xem.
Thế là mỗi ngày vào lớp, nó bắt đầu tỏ vẻ ta đây, luôn nghĩ rằng mình khôn khéo, thông minh hơn các bạn, rằng các bạn phải nghe lời nó, nếu không thì cái mặt nó sẽ rúm ró, gàu gợn không khác gì cái bịch ni lông được xài lại nhiều lần, kèm theo cái vẩu môi kinh điển và cái giọng chua ngoa: "Muốn làm gì thì làm!" đầy hách dịch. Mỗi khi có ai trả lời được các câu hỏi khó do thầy cô bộ môn đặt ra, không phải nó, nó sẽ ngồi ra đó, hết liếc mắt khó chịu đến tức tối trong lòng. Nó muốn được công nhận là người toàn diện nhất lớp. Phải là người cất tiếng lên mà ai cũng nghe theo. Nó là lớp trưởng. Nó phải là nhất.

Từ đó cái tính ích kỉ tự cao lại ngoi lên chiếm phần nhiều trong nó. Nó tự cao đến nỗi không dám nói xin lỗi bất cứ ai, không thèm suy xét kĩ lưỡng một vấn đề. Đã quen là tâm điểm của sự chú ý, nó luôn là đứa đầu têu ra tất cả phi vụ "nói chuyện liên hành tinh" trong lớp. Thầy cô bắt đầu phàn nàn về tình trạng kỉ luật của lớp. Đã có một số bạn cảm thấy không phục với cách xử lí vấn đề của nó. Tự cao quá mức, nó bắt đầu ỷ y vào khả năng học tập của mình, bắt đầu bỏ bê việc học, hoặc nhiều khi nó chỉ ôm tập ngồi thừ ra đó, tập mở ra trước mắt, nhưng đầu óc nó lại lang thang đâu đó, đi luẩn quẩn trong một thế giới khác, một thế giới được xây nên bằng những viên gạch xấu tính đố kị kết dính chặt chẽ với nhau bằng chất keo "chủ quan", sẵn sàng khép chặt cánh cửa, cách ly nó khỏi thế giới bên ngoài.

Kì thi tập trung giữa học kì đến và qua nhanh.


Cầm trên tay bảng điểm, con bé muốn bật khóc.

Trước khi kiểm tra vì nghĩ mình biết hết, nó không thèm xem lại những bài cũ từ đầu năm.

Lúc kiểm tra xong, nó cứ nghĩ mình đúng hết.

Nhưng, sao điểm nát bét thế này?

Một con toán trung bình.

Một con hóa chỉ được 6 điểm (con bé tính ra nó được 9 cơ).

Môn văn, môn nó tự tin nhất, chỉ được 7 điểm, trong khi những bài kiểm tra từ lúc biết văn là gì nó luôn trên 8, thuộc top cao nhất của lớp.

Môn anh văn, tại sao vậy, 7 điểm thôi?

Không thể thế được. Con bé chực trào nước mắt. Lớp trưởng mà còn thua điểm gần như hết lớp. Lớp trưởng mà học sinh khá. Bộ mặt của lớp mà bảng điểm nát bét như thế này sao?
Nó nén lại, cố dụi cho bằng được nước mắt.

Phải tìm đứa nào đó để "dốc bầu tâm sự" xả stress mới được.

Giờ nghỉ giữa 2 tiết, nó vào nhà vệ sinh, vừa để "giải quyết nỗi buồn", vừa để xem có đứa nào trong lớp đang ở trong nhà vệ sinh không.

Cửa các buồng vệ sinh đóng im lìm, chắc bọn nó chưa ra, con bé mệt đến nỗi không buồn gọi xem có ai chung lớp nó đang ở trong đó không.

Nó tìm một buồng không người.

Đang "giải quyết", nghe tiếng cửa mở, rồi có ba giọng nói quen thuộc vang lên, ríu ra ríu rít. 3 con nhỏ hay tám với mình đây rồi, nó định mở mồm gọi tên bỗng khựng lại...
Giọng nói quen thuộc đó, từng cùng nó trải qua biết bao "phi vụ", từng là một trong những người nó tin tưởng,
Giọng nói ấy, tiếc thay, đang gợi nguồn cho một cuộc nói xấu sau lưng, mà "nữ chính" của câu chuyện, không ai khác, chính là nó.

"Bọn bay biết lớp trưởng môn Toán bao nhiêu điểm không?"

"9 điểm hả?"

"Hửm? Sao cao vậy được? Đánh giá lớp trưởng hơi cao rồi đó."

"Tao thấy nó biết nhiều với tự tin lắm mà?"

"Trời, cái mác bên ngoài nó vậy thôi, trong lớp suốt ngày nói chuyện, quản lớp thì không, thầy cô khó chịu ra mặt, cho điểm thấp là đúng rồi."

"Ừ, nó chểnh mảng thiệt đó, đầu năm tao cứ nghĩ nó biết điều khiêm tốn lắm."

"Mới đầu vô nó vậy, giờ bản chất lộ ra rồi, từ giờ đảm bảo không ai nghe lời nó nữa."

Cả đám lại ríu rít ra ngoài, bỏ mặc nó co rúm trong nhà vệ sinh, tủi hổ, sững sờ, cô đơn...

Nó xuống dốc thật sự. Những ngày đến trường không còn là những ngày vui, đầy tiếng cười nữa. Cứ nghĩ đến cảnh bị "phản bội", bị nói sau lưng, bị ánh mắt dò xét kín đáo của các thành viên trong lớp là lòng nó lại trĩu lại, nó cảm thấy mỗi ngày vào lớp là một lo lắng, là một gánh nặng. Càng lo lắng, nó càng mất tập trung trong giờ học, bắt đầu ngại mở lời, không dám tham gia trò chuyện với các bạn nữa. Việc quản lý lớp của nó càng ngày càng trì trệ...

"Lớp trưởng ơi, quyết vụ áo lớp đi!"

"Hả?" – nó giật mình khi thấy tin nhắn từ đứa bạn cùng lớp. – "Có áo lớp nữa hả?"

"Ủa? Lớp nào chả có áo lớp? :))"

"Ờ để tui coi thử."

Nó mệt mỏi mở nhóm chat của lớp, một loạt các ý tưởng...không giống ai lướt qua, nó thầm nghĩ "Sao tụi lớp mình có gu tệ thế nhỉ? Loại áo này mặc vào không giống ai cả?"

Không hình dung tiếp được cảnh nó sẽ phải mặc loại áo màu xám xịt chèn thêm mấy dòng chữ nhằng nhịt, nó type luôn:

"Thôi để áo vậy kì lắm. Mình đổi kiểu khác được không?"

"Kiểu nào nói thử coi LỚP TRƯỞNG ơi?" – dòng tin nhắn đáng ghét tỏ ý khinh bỉ nó xuất hiện, đứa nó "không vừa mắt" nhất lớp nghĩ nó là ai thế kia?

Tự ái, nó liền đề xuất cho cả lớp nó ý tưởng về cái kiểu áo được "thiết kế có 1-0-2" và hoàn toàn "phù hợp với mắt người nhìn vào cái lớp". Phổ biến xong, tưởng chừng được ủng hộ, lay động được cái nhìn của các bạn, nó nào ngờ tự nó lại đẩy mình vào tình thế, như mẹ nó nói là "Không biết thì dựa cột mà nghe", và nó lại bỏ cái cột đi đến nơi nào mất rồi.

"Gu thẩm mỹ của bà bị gì vậy bà?"

"Thôi cho tui xin, bà đi khám mắt đi là vừa!"

"Trời đất, kiểu này quê quá à, tầm thường hết sức."

Đúng lúc con bé vốn nhạy cảm sắp chết ngộp trong những lời chê bai ấy, đứa nó chướng mắt nhất lớp – đứa luôn luôn can thiệp vào chuyện quản lí lớp của nó, luôn lăm le chức lớp trưởng của nó – lên tiếng :

"Được rồi các bạn, tha lớp trưởng đi, lớp trưởng đang sống chậm thời đại thôi à, mốt có hoạt động gì thì mình tự làm để lớp trưởng có thời gian cập nhật cái đầu lại ha."

Con bé tức giận, tức giận thật sự, đứa đó là ai mà dám lên mặt với nó như vậy? Bực mình, nó type một dòng: "Có quyền gì mà nói tao như vậy?"

Cô nàng này cũng không vừa gì nó. Tìm đúng được điểm yếu của nó, cô độp vào ngay:

- Ủa chứ phải là lớp trưởng mới có quyền nói hả? Lớp trưởng chứ không có phải cái rốn của vũ trụ nhé, muốn mở miệng ra là người khác phải tuyệt đối răm rắp nghe theo cái ý kiến ngớ ngẩn của mình hả?

- Tụi tao chán cái thái độ của mày lắm rồi. Lớp trưởng gì mà trong lớp thì nói chuyện riêng. Suốt ngày ganh tị với hết người này đến người khác. Hở tí không được thì bĩu môi giở trò nước mắt ra hù dọa, quát tháo. Phong trào thì không làm được đến đâu. Vì cái "năng suất hiệu quả" của mày mà từng phong trào đều chỉ đùn hết cho một đứa làm. Giờ đến áo của lớp thì cũng không quan tâm. Làm ơn đi, cái lớp này chán ngấy cái tác phong quản lí lớp của mày lắm rồi.

Chắc chắn nó bị trách oan. Con bé tham gia đầy đủ phong trào của lớp. Nó cố gắng giúp đỡ các bạn trong từng mảng văn nghệ, phụ trong phần chỉnh sửa video lớp, đôn đốc tìm địa điểm, ý tưởng cho cuộc thi cắm hoa. Lẽ nào lại không nhìn ra được công sức, thời gian nó đầu tư? Hình như chưa đủ để "giết" con bé, một bức ảnh chụp màn hình đã cắt tên người nhắn được gửi lên ngay nhóm chat của lớp, từng dòng chữ như cắt đứt hơi thở và nhịp tim, cũng như niềm tin của con bé:

"Thiết nghĩ nên đổi lớp trưởng đi, chứ cái thể loại đứng đó giao việc xong không làm gì thì không xứng đáng để lãnh đạo cái tập thể này nữa."

Tim con bé ngừng đập. Trong một thoáng, nó thiết nghĩ mình chết đi là vừa. Nhục nhã. Bị khinh bỉ. Không một ai tin nó. Tất cả mọi người đều quay lưng lại với nó. Con bé cảm thấy như bị đẩy xuống dòng chảy tối tăm. Càng ngày càng chìm xuống dần. Nó quẫy đạp. Nó kêu cứu. Không một lối thoát, không một cánh tay nào kéo nó lên. Dòng chảy vẫn tiếp tục chảy xiết, như muốn chôn vùi nó cùng chức lớp trưởng nó hằng ao ước xuống đáy biển sâu. Nó thất vọng vì những ước mong muốn gắn bó, làm cho cả lớp tốt hơn lại không được ai công nhận. Nó thật sự hối hận vì không tin lời mẹ, nó hận mình cứ một mực làm theo những gì mình thích. Chỉ cần nó thích. Chứ nó không bao giờ để ý đến hậu quả sau này. Và con bé khóc. Nó khóc. Từng giọt nước mắt đong đầy xấu hổ, oan ức và căm ghét bản thân. Đáng lẽ không làm lớp trưởng, thì nó sẽ không bị soi mói, không phải rớ tay vào những việc nó không thích như thế này. Đáng lẽ không làm lớp trưởng, cuộc sống của nó sẽ thoải mái, nó sẽ bớt những thói ích kỉ hơn bây giờ. Đáng lẽ ra...

Một tin nhắn mới.

Con bé định tắt nguồn, quăng chiếc điện thoại đi thì...
Là cậu bạn im lặng, trầm tính ngồi bàn cuối trong lớp nhắn cho nó. Con bé hay quan tâm đến cậu bạn vì cậu "bí ẩn", học giỏi và ...khá bảnh trai. Khác với những thành phần nhiều chuyện loi choi trong lớp, cậu hay ngồi đọc những cuốn sách cổ điển, xa xửa xa xưa, hoặc cùng lắm thì trò chuyện với nhóm các bạn nam mê trinh thám. Con bé từng lân la đến gần và nghe cậu say sưa kể về chiến thuật suy luận của Sherlock Homes, Arsene Lupin và Sam Spade,...toàn là những thứ quá vĩ mô đối với con bé. Trong lớp cậu không hay giơ tay phát biểu, chỉ xung phong khi có bài khó và điểm kiểm tra cậu rất cao. Con bé ngưỡng mộ cậu bạn ấy. Nó hay kiếm cớ lại gần hỏi cậu về các cuốn sách, thông báo lại cho cậu về phong trào, hoặc đơn giản, nhắc cậu chuẩn bị lễ phục chào cờ. Có thể nói, con bé có cảm tình đặc biệt với cậu bạn ấy.

"Lớp trưởng ơi, các bạn nói cũng đúng đó, chỉ là cách thể hiện không được khéo thôi. Lớp trưởng đừng để ý những lời nặng nề đó mà hãy xem như đó là lời khuyên thôi nha! Đừng từ chức nhé vì ngoài bà ra, không ai phù hợp để làm lớp trưởng một cách nhiệt tình như vậy đâu."

Con bé ngơ ngác, xen lẫn một chút cảm giác được an ủi, một tia nắng ấm áp xuyên qua lòng nó. Hóa ra, trong lớp này, người nó xem trọng nhất, cũng chính là duy nhất còn tin tưởng, ủng hộ nó. Cuối cùng cũng có người dám chèo thuyền đi tìm nó, dù chỉ có 2 cánh tay, nhưng vững chắc, đủ để kéo nó thoát khỏi dòng nước dữ.

Con bé nhắn lại : "Cảm ơn ông nha! Nhưng chắc chỉ có mình ông nghĩ vậy, các bạn khác chắc cũng sẽ đề nghị với cô giáo đổi lớp trưởng thôi."

"Không đâu, mọi người không có ý gì đâu mà."

"Đừng tiêu cực nha! Cũng đừng có từ chức. Còn tui...tui ủng hộ bà...Mà thôi, lớp trưởng ngủ sớm đi, mai còn đi học."

Đặt điện thoại xuống, con bé quệt nước mắt, mỉm cười. Tối đó, nó nằm suy nghĩ, liệu trước giờ nó có thật lòng muốn làm lớp tốt hơn hay chỉ muốn chứng tỏ một mình bản thân nó? Liệu có bao giờ nó thật sự lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của mọi người? Liệu có bao giờ nó chịu nhìn nhận thật kĩ vào những sai lầm, khuyết điểm trước đó của nó không?, nó cứ nghĩ, nghĩ mãi, rồi nó chìm vào giấc ngủ sâu, miên man, trong mơ đó nó thấy các bạn trong lớp uể oải đến trường sau khi nhận những nhiệm vụ "bất khả thi bất khả cãi" của nó, oan ức vì những "phán xét" không có suy nghĩ, bất công của nó, bất lực nghe ý kiến của mình bị bác bỏ, không thể đóng góp thêm ý kiến để xây dựng lớp. Con bé như kẻ độc tài đứng trên ngọn núi của sự tự cao tự đại, giương lá cờ màu đỏ thẫm, cái màu tưởng chừng có thể đem con người ta trở nên quyền lực, thành công, cuối cùng lại thành một màu đại diện cho nguy hiểm, bị đẩy xuống vực khi nào không hay....

Hôm sau, giờ sinh hoạt chủ nhiệm,

"Kết thúc giờ sinh hoạt, các em có ý kiến góp ý gì không?"

Con bé, với một sự dũng cảm, xen lẫn hồi hộp y như cái ngày nó giơ tay tự ứng cử làm lớp trưởng, lên tiếng:

- Thưa cô, em có chuyện muốn nói với cả lớp.

Con bé, với sự hối hận tột độ, mong muốn cải thiện, đã thật sự bỏ qua được cái tôi của mình, mà chân thành xin lỗi cả lớp, xin lỗi những lúc vô tâm, ích kỉ, bảo thủ mà quên đi rằng, các bạn cũng là những người có chính kiến, có tài năng, và quan trọng, cũng là một thần dân trách nhiệm muốn chung tay giúp nó xây dựng lớp. Nó cũng tâm sự về những khó khăn lần đầu làm lớp trưởng, những chật vật cố gắng cân bằng việc trường lớp và học hành, những khoảnh khắc nó chợt thấy lớp đoàn kết, cười đùa, lòng nó tự nhiên ấm áp, như đó chính là trái ngọt đầu tiên, là thành công của việc lãnh đạo một tập thể của nó. Con bé không nhớ nó còn bộc lộ những cảm xúc gì, nhưng toàn thể lớp đều vỗ tay ủng hộ, an ủi, đóng góp ý kiến một cách thẳng thắn chân thành, kể cả cô nàng hay chọc quê nó, đặc biệt, các bạn cảm ơn sự nhiệt tình của nó, còn xin lỗi nó vì cứ nghĩ nó không làm gì cho lớp...

"Trên đời ai mà chả một lần bị vấp ngã, ngay từ những trải nghiệm đầu tiên? Quan trọng, ta có cảm thấy lương tâm cắn rứt vì mình chưa cố gắng hết sức, để tạo động lực cho mình phát triển và sửa đổi thôi." Con bé tự nhủ với chính mình trên đường về nhà. Ngày mai tới trường, nó sẽ là một cô lớp trưởng hòa đồng, luôn quan tâm, đốc thúc các bạn tham gia học tập và luôn đoàn kết, thương yêu nhau, như mục tiêu ban đầu của nó khi mới nhận chức, và đến bây giờ mục tiêu đó vẫn chỉ như vậy.....

Kết thúc học kì 1, nó la toáng vui mừng khi công sức cải thiện, phấn đấu của nó được đền đáp: Nó đủ điểm để đạt học sinh giỏi! Không những thế, vì đã hiểu phần nào tính cách và năng lực của nhau, lớp nó đạt giải nhì cuộc thi trí tuệ và múa cổ động của trường, được khen thưởng danh hiệu "Lớp tiến bộ nhất khối". Được cô giáo và các bạn hoan nghênh, nó vui lắm. Nó thật sự yêu cuộc đời này và cám ơn những bất đồng, những chê bai từ mọi người xung quanh đã làm nó tự hối lỗi và hoàn thiện bản thân, trở thành một cán bộ lớp đầy gương mẫu, công bằng, luôn đặt mục tiêu chung của lớp lên trên, một học sinh ngoan ngoãn, học lực tốt, một đứa con gái biết suy nghĩ thấu đáo, biết phụ mẹ việc nhà và bớt cãi bướng khi mắc phải lỗi lầm...

Ngày Valentine đã đến, không khí xung quanh ngập tràn những ngọt ngào, tinh khiết của tình yêu học trò. Hương tóc nhẹ của những cô bạn thoang thoảng vào mũi nó, mùi quần áo được là ủi thơm tho của đám con trai đang ra vẻ người lớn, lịch sự. Nhìn những cặp đôi xung quanh nó, mới bước vào trường thôi, con bé thấy lòng mình hơi chùng lại. Ừ thì, có bao giờ nó nghĩ về việc có bạn trai đâu nhỉ? Mà chắc cũng chả ai thèm để ý đến nó đâu. Có gì đâu mà ghen tị ?


"Valentine này, cậu cho tớ được làm "vệ tinh", à nhầm, vệ sĩ của cậu được không, lớp trưởng?"

Mảnh giấy kèm với chiếc túi giấy màu hồng nhẹ nằm trong hộc bàn nó, bên trong là thỏi sô cô la vị hoa hồng – vị nó thích nhất. Túi giấy còn rất ấm. Băn khoăn, ngẩn ngơ, không biết là ai đã "thương hại" nó hay cố tình trêu nó vậy nhỉ? Nó chợt nhìn ra cửa lớp, cậu bạn trầm tính ấy đang đứng nhìn nó, nắng chiếu lên mái tóc đen và đôi mắt sáng của cậu. Con bé ngẩn người. Má cậu chuyển sang ửng đỏ, cậu hít một hơi, tiến về phía nó. Cả người con bé như nổ tung vì những "mạch điện" tình cảm đang rần rần chạy ngang dọc, với vận tốc còn hơn cả ánh sáng. Con bé vuốt khẽ mái tóc, mỉm cười...

Bầu trời đương muốn níu giữ mùa xuân vẫn xanh mướt, những ngọn gió vẫn thoảng nhẹ qua mái tóc và tà áo học sinh.
Những tán lá vẫn khẽ đung đưa, lay động những giọt sương long lanh bên đóa hoa xuân nở muộn.

Và con bé vẫn vui vẻ đi trên con đường đến trường mỗi ngày, chỉ là, bên cạnh nó, đã có một chàng trai đi cùng.

Dù có chuyện gì thì vẫn luôn cố gắng và thật trách nhiệm, phải không cô lớp trưởng ?

2
30 tháng 8 2019

cậu k thể ns câu nào lịch sự hơn ngoài câu đó đc à

dài thế, chép ở trên mạng ak ?

a . Với lòng mong nhớ của anh , chắc anh nghĩ rằng con anh sẽ chạy xô vào lòng anh => ( Cụm Động từ ) ,sẽ ôm chặt lấy cổ anh => ( Cụm Động từ ) .

b . Không lời gửi của một Nguyễn Du , một Tôn - xtoi cho nhân loại phức tạp hơn => ( Cụm tính từ ) , cũng phong phú và sâu sắc hơn = >( Cụm tính từ ) .

17 tháng 8 2019

b, hoa sen biểu trưng cho mà hè, còn hoa cúc là biểu tượng mùa thu
-> dùng dấu hiệu sự vật để gọi sự vật
Sen tàn,cúc lại nở hoa​ -> ý nói mùa hè qua đi, mùa thu lại đến
c, đầu xanh -> chỉ tuổi trẻ
má hồng -> chỉ người con gái đẹp, một mĩ nhân
-> Cả hai từ này đều dùng để ám chỉ nhân vật Thúy Kiều
-> lấy bộ phận chỉ toàn thể
 

Bài 1 (2 điểm): Gạch chân từ không cùng hệ thống trong các dãy từ sau:a/ Xanh biếc,xanh xao,xanh lơ,xanh thẫmb/ Lóng lánh,mênh mông,rì rào,thưa thớtc/ Nhanh nhảu,nhanh nhẹn,nhanh nhạy,nhanh nhanhd, Xuân , hạ , thu , đôngBài 2 (1 điểm): Đọc 2 ví dụ sau:a/ Trong đầm gì đẹp bằng senLá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.b/ Khi tóc thầy bạc, tóc em vẫn còn xanh . Nghĩa của từ xanh trong câu a là:...
Đọc tiếp

Bài 1 (2 điểm): Gạch chân từ không cùng hệ thống trong các dãy từ sau:

a/ Xanh biếc,xanh xao,xanh lơ,xanh thẫm
b/ Lóng lánh,mênh mông,rì rào,thưa thớt
c/ Nhanh nhảu,nhanh nhẹn,nhanh nhạy,nhanh nhanh

d, Xuân , hạ , thu , đông
Bài 2 (1 điểm): Đọc 2 ví dụ sau:
a/ Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
b/ Khi tóc thầy bạc, tóc em vẫn còn xanh .
 Nghĩa của từ xanh trong câu a là: ..............................................................................................

 Nghĩa của từ xanh trong câu b là: .............................................................................................. Bài 3 (2 điểm) Điền những cặp từ cùng nghĩa hoặc trái nghĩa vào chỗ trống trong các câu thành ngữ sau:
a/ ......................lang...................sói.

b/ Chân................đá.......................
c/ .....................người..................dạ.

d/ ......................xuôi..................lọt.
Bài 4 (3 điểm): Đọc đoạn văn sau:

(1) Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. (2) Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. (3)Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi và cát lại vàng giòn hơn nữa. (4) Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. (5) Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. (6) Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương, bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô.

                                                        ( Cô Tô - Nguyễn Tuân )

Điền vào chỗ trống các câu sau :

1, Câu ......................... là câu ghép , Câu ....................... có thành phần trạng ngữ chỉ thời gian.

2, Cảnh thiên nhiên trên đảo Cô Tô ‘‘ngày thứ năm’’ có đặc điểm gì nổi bật ? Vì sao ? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để nhấn mạnh điều đó

Bài 5 : Đọc đoạn trích trong bài thơ Hà Nội sau :

Hà Nội có Hồ Gươm

Nước xanh như pha mực

Bên hồ ngọn Tháp Bút

Viết thơ lên trời cao .....

1, Nêu tên tác giả và thể loại của những câu thơ trên 

Bài 6 : Có em học sinh đã chép một bài thơ như sau :

Không gì thích bằng nằm võng

Tha hồ được ngắm vòm cây

Tha hồ nghe chim chò chuyện

Ở phía sau tán lá giày.

Không gì thích bằng nằm võng

Khép đôi mắt lại và ....mơ

Võng là một con thuyền nhỏ

Trở em đi khắp bến bờ.

Tuyệt nhất là khi có nội
Ngồi bên kể truyện thầm thì

Trong mơ chắc chắn em được

Một bà tiên dắt tay đi ...

(Nằm võng – Phan Chí Anh)

1, Gạch chân những từ viết sai trong đoạn thơ trên 

2,Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ?

3, Đặt câu có từ ‘‘nội’’ đồng âm với từ ‘‘nội ’’ trong bài thơ trên

4,Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về bạn nhỏ nằm võng trong bài thơ này:

 

1
15 tháng 8 2019

1. a. xanh xao

b. rì rào

c. nhanh nhạy

2. - nghĩa gốc: màu xanh

- nghĩa chuyển: trẻ

3. Lòng - dạ

- cứng - mềm

- một - một

- đầu - đuôi

cs tên tsukamoto Yakumo

nhớ điều này

I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"

1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;

2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.

3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.

Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

15 tháng 8 2019

 Từ so sánh : chưa bằng .
_ Kiểu so sánh : không ngang bằng .
· Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bấm sáu mươi .
_ Từ so sánh : chưa bằng .
_ Kiểu so sánh : Không ngang bằng .
=> Tác dụng: Việc so sánh không ngang bằng đã làm lộ rõ tình yêu thương của anh chiến sĩ với người mẹ kính yêu. Dù có đi xa mãi, đến chân trời góc bể thì anh vẫn luôn nhớ tới người mẹ kính yêu với nỗi lòng tái tê, với sự khó nhọc của tuổi sáu mươi...