K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh"...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ

      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh" là gốc của "động", "tĩnh" là cội nguồn của thế giới. Cùng với nó, "tĩnh tại" và "thanh vắng" cũng trở thành tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông" trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không − một hư không chứa đầy âm nhạc, chứ không phải hư không trống rỗng. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn, bơ vơ. Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng. [...]

     Và sự phủ định cuối cùng "không khói hoàng hôn..". Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén. Ngày vắng xem hoa bợ cây" (Nguyễn Trãi), "Lác đác bên sông chợ mấy nhà" (Bà huyện Thanh Quan), hay "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh thế này, hơn nghìn năm trước, Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

     Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu! Nhớ nhà như là để vượt thoát, để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác: tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất?

     (2) Đứng trước dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn điềm nhiên, dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn và hình như trong bài thơ, Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ. Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ, nhất là láy nguyên: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... không chỉ gợi được sự đường bệ, mà còn gợi được nhịp triền miên. Những cặp câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp, đuổi nhau không ngừng nghỉ: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song". Các vế câu vừa cắt rời, vừa kết nối lên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi, rong ruổi, miên man: "Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu". Rồi những từ, cụm từ chỉ sự trùng điệp, nối tiếp ở cuối các câu: "hàng nối hàng", "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng",... tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau, phụ họa lẫn nhau, tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt: có một dòng tràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian từ thuở khai thiên lập địa, chảy miết qua các thời đại mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?

     (3) Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xóa được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ? Mà dường như cũng là của một người già? Bởi vì tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng?

(Theo Thơ Huy Cận − Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội, 2007, tr. 356 − 361)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. 

Câu 2.  Trong phần (3), người viết đã thể hiện cảm xúc, thái độ gì?

Câu 3. Trong phần (1) của văn bản, tác giả đã chỉ ra nét khác biệt nào của Tràng giang so với thơ xưa khi cùng tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông"?

Câu 4. Trong phần (2) của văn bản, tác giả đã phân tích những yếu tố ngôn ngữ nào của bài thơ để làm sáng tỏ "nhịp chảy trôi miên viễn" của tràng giang?

Câu 5. Em ấn tượng nhất với đặc điểm nào của bài thơ Tràng giang được phân tích trong văn bản? Vì sao?

0
17 tháng 9

d

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.                    TƯƠNG TƯ     Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,Một người chín nhớ mười mong một người.     Gió mưa là bệnh của giời,Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.     Hai thôn chung lại một làng,Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?     Ngày qua ngày lại qua ngày,Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.     Bảo rằng cách trở...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

                   TƯƠNG TƯ

     Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
     Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
     Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
     Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
     Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
     Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

     Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
     Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

     Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
     Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

                                           Hoàng Mai, 1939

                                 (Nguyễn Bính, theo thivien.net)

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản. 

Câu 2. Cụm từ "chín nhớ mười mong" diễn tả nỗi nhớ như thế nào? 

Câu 3. Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.

Câu 4. Những dòng thơ Bao giờ bến mới gặp đò? / Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau? đem đến cho em cảm nhận gì?

Câu 5. Từ tâm trạng tương tư tha thiết trong bài thơ, em có suy nghĩ gì về giá trị của tình yêu trong cuộc sống? (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng)

0
17 tháng 9

câu 1

Nhân vật bé Em trong truyện "Áo Tết" của Nguyễn Ngọc Tư là một hình ảnh tiêu biểu cho sự ngây thơ, trong sáng nhưng cũng đầy sâu sắc và tình cảm. Bé Em, một cô bé khoảng 10 tuổi, sống cùng bà trong một ngôi nhà nghèo khó ở miền Tây Nam Bộ. Dù hoàn cảnh khó khăn, bé Em luôn giữ trong mình niềm vui và hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chiếc áo Tết mới không chỉ là một món quà vật chất mà còn là biểu tượng của những ước mơ giản dị nhưng đầy ý nghĩa của em. Bé Em rất yêu quý chiếc áo này, không chỉ vì nó đẹp mà còn vì đó là món quà duy nhất mà bà có thể tặng.

Tính cách của bé Em được thể hiện qua sự nhạy cảm và tinh tế trong cách em đối xử với mọi người xung quanh. Em luôn quan tâm, chăm sóc bà, hiểu được nỗi khổ của bà và không phàn nàn về hoàn cảnh khó khăn. Tình bạn chân thành của bé Em với Bích cũng là một điểm sáng trong truyện. Dù hoàn cảnh gia đình khác nhau, bé Em luôn quan tâm và chia sẻ với bạn, không khoe khoang về những bộ đồ mới của mình khi biết Bích chỉ có một bộ đồ mới cho Tết.

Những hành động nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của bé Em thể hiện sự cảm thông sâu sắc và lòng yêu thương vô bờ bến. Em luôn cố gắng làm cho bạn cảm thấy vui vẻ và không bị tự ti về hoàn cảnh của mình. Qua nhân vật bé Em, Nguyễn Ngọc Tư đã truyền tải một thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, sự hy sinh và lòng yêu thương, đồng thời khắc họa một hình ảnh tuổi thơ trong sáng nhưng cũng đầy nghị lực và hy vọng.

câu 2

Từ truyện ngắn "Áo Tết", chúng ta học được rằng tình bạn và sự đồng cảm còn quý hơn vật chất. Nhân vật bé Em đã cho thấy sự trưởng thành khi nhận ra giá trị tinh thần này, nhắc nhở mỗi người cần biết cân bằng giữa nhu cầu vật chất và giá trị tinh thần, đặt tình cảm, sự sẻ chia lên trên vật chất phù phiếm. Để xây dựng lối sống hài hòa, ta cần rèn luyện lòng nhân ái, thực hành sẻ chia từ việc nhỏ, tham gia các hoạt động cộng đồng và xây dựng môi trường giáo dục đề cao giá trị tinh thần. 
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. NHỮNG DẶM ĐƯỜNG XUÂN Thế là tháng củ mật sắp hết, tháng mà mỗi ngày "chưa cười đã tối" vì mùa đông, mặt trời thích ẩn vào mây cho ấm sớm mà cũng vì cái Tết đang xình xịch đến sau lưng, tháng mà ai cũng phải vội vàng hối hả, tất bật như vội ra ga không thì con tàu mình đi sắp chuyển bánh khởi hành, mau lên kẻo lỡ...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

NHỮNG DẶM ĐƯỜNG XUÂN

Thế là tháng củ mật sắp hết, tháng mà mỗi ngày "chưa cười đã tối" vì mùa đông, mặt trời thích ẩn vào mây cho ấm sớm mà cũng vì cái Tết đang xình xịch đến sau lưng, tháng mà ai cũng phải vội vàng hối hả, tất bật như vội ra ga không thì con tàu mình đi sắp chuyển bánh khởi hành, mau lên kẻo lỡ chuyến tàu đời...

Người xa quê ơi, sao đến hôm nay sắp năm cùng tháng tận mà người mãi chưa về, còn mải mê vui thú đường xa hay đang ê chề nỗi gian lao vất vả không dám về quê vì vẫn chỉ bộ quần áo tàng tàng rung rúc, không được ai xênh xang xe, ngựa, có cành hoa giấy trang kim, có gói bánh cốm lá xanh lạt đỏ biếu cô dì chú bác, không có đồng tiền cho vợ may cái yếm mới đón xuân... nên người tủi phận, tự mình lần tránh thân mình, tự mình lừa hồn mình, khất lần ngày về nơi chôn rau cắt rốn.

Tết ơi, giá mỗi năm có mười cái Tết thì chắc con người phải bạc đầu từ trẻ, nhưng nếu mười năm mới có một Tết thì chắc hồn người cũng sẽ ủ ê không biết nhường nào [...].

Phiên chợ cuối năm đã họp kín người, xế chưa tan. Đắt hàng thế là chị bán hàng vàng hương, vàng hồ, vàng hoa, mũ ông Công, ông Táo, hương đen, hương vàng, hương trầm, hương sạ, hương sào, hương vòng, nến trắng, nến đỏ. Không hiếu sao ngồi cạnh chị ngay ngoài đầu chợ, bao giờ cũng có bà trầu vỏ kèm bên. Bà cụ đã móm, hình như bà ngôi đây đã mấy trăm cái Tết, nên chiếc vồ chặt vỏ, nguyên là cả khúc gỗ mít, gỗ nhãn đã xơ ra, tướp hết, thành cái chày thắt ngẵng, như sắp gãy ở quãng giữa ấy. Những thanh vỏ chay ngon lành thế, cô con gái biếu mẹ, vì lấy chồng xa, chị con dâu hiền thảo mua cho mẹ chồng ăn Tết, mỗi thanh còn vỏ au đỏ mỏng tang như làm bằng giấy bản nhuộm hồng, những thanh vỏ quạch, từng khúc nâu xỉn, như từng khúc lưng con rắn rừng nằm chờ thân phận được quyết định về với Tết nhà ai, nghèo khó nơi bìa làng, thiếu thốn nơi ngõ trại,...

[…] Ngoài đình, ngoài chùa, mái quán chơ vơ trên đồng, bờ giếng tròn xây... đã được mặc tấm áo trắng tinh, trắng lốp bằng nước vôi mới quét, càng kéo cái Tết đến gần, như đã sờ thấy nó, nó đã vào đến làng, đến cổng rồi kìa... Hình như từ sâu thẳm tâm can, mỗi con người đều được cái Tết thúc gọi, cấy vào đấy chiếc mầm cây mới, gieo vào đấy cái hạt nở ra cây hi vọng. Bận rộn mà vui, hối hả vẫn tươi cười... để có niềm hạnh phúc chờ mong mơ ước. Đôi câu đối giấy hồng điều trên cột, đôi cây mía tím, mía voi làm gậy ông vải hai bên bàn thờ, tờ tranh ông Phúc, ông Lộc dán hai bên cánh cửa, con gà mắt trong veo, con lợn gặm cây khoai ráy, chị tốc váy hứng dừa, anh đánh ghen rúc rích thứ tranh Đông Hồ bán đầy chợ Tết, bày la liệt mặt đất,... cho đến tranh y môn, mâm bồng ngũ quả bán ngoài thành phố,... bức tranh lụa hay sơn dầu quý phái bạn họa sĩ tặng ta treo Tết,... chẳng là hi vọng cái mới sẽ sang đấy sao?

[...] Ta trở về những nẻo đường xuân ríu rít, càng nhận ra cần phải trở thành con người hữu ích ra sao, chí ít là cho bản thân bé nhỏ của ta không phải phiền nhiễu đến bao người khác, mong sao ông chánh án thất nghiệp, anh công an nhàn rồi mà rong xuân, bà thẩm phán cứ dắt con đi công viên, và cái tháng củ mật ngàn năm mịt mùng kia yên bình bất chấp mưa kim châm hay gió cắt thịt... Hàn những giây phút này đây, ông Táo trên trời đã trở về trái đất. Ông lĩnh nhiệm vụ mới Thiên đình giao cho ra sao, sẽ khuyên nhủ gia chủ ăn ngay ở thẳng thế nào, cho ba trăm sáu mươi ngày đều vui như ngày hội, cho cô gái tựa tóc vào vai người yêu, cho chàng trai soi vào mắt người tình mà run quả tim trong sạch, cho con chim khách không bao giờ sai, cho những chú bé đi "hôi" cá cứ cười như nắc nẻ, dù chỉ được con tôm hay chú cá rô ron, cho chợ Tết người chen người, cho đồng lúa rờn rờn bát ngát, cho những con người lầm lạc sớm hoàn lương,... Thành phố nơi ta ở, làng xa nơi mẹ ta chờ,... xuân đã sang ở cả hai nơi. Giờ này, những nẻo đường xuân, bao nhiêu con tàu đang hối hả đích tới, chở theo những trái tim hồi hộp, những cành hoa và những gói quà Tết, mứt sen hay rượu cúc, bánh cốm hay trà sen,... tàu cứ đi đi, mùa xuân còn dài, còn dài như đời ta, như đất nước, như vũ trụ...

(Băng Sơn, Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2016, trang 40 - 47)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2. Thời điểm nào trong năm gợi cảm hứng sáng tác cho tác giả?

Câu 3. Khung cảnh làng quê khi mùa xuân về được miêu tả trong văn bản như thế nào?

Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê trong câu văn sau: "Ông lĩnh nhiệm vụ mới Thiên đình giao cho ra sao, sẽ khuyên nhủ gia chủ ăn ngay ở thẳng thế nào, cho ba trăm sáu mươi ngày đều vui như ngày hội, cho cô gái tựa tóc vào vai người yêu, cho chàng trai soi vào mắt người tình mà run quả tim trong sạch, cho con chim khách không bao giờ sai, cho những chú bé đi "hôi" cá cứ cười như nắc nẻ, dù chỉ được con tôm hay chú cá rô ron, cho chợ Tết người chen người, cho đồng lúa rờn rờn bát ngát, cho những con người lầm lạc sớm hoàn lương,...".

Câu 5. Nội dung chính của văn bản này là gì?

0
(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:ÁO TẾT Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho: – Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi. Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó. Con Bích ở trong hẻm, nhà nó nghèo, má nó đi bán bắp nướng ngoài đầu hẻm, con bé Em thích con Bích vì nó hiền, với lại ngồi kế nhau từ lớp một...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

ÁO TẾT

Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho:

– Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi.

Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó.

Con Bích ở trong hẻm, nhà nó nghèo, má nó đi bán bắp nướng ngoài đầu hẻm, con bé Em thích con Bích vì nó hiền, với lại ngồi kế nhau từ lớp một tới lớp năm, làm sao mà không thân cho được. Hôm hai mươi sáu, học buổi cuối năm, hai đứa nôn Tết quá quá trời nên tính trước, nếu mùng một con bé Em đi về Ngoại thì mùng Hai hai đứa đi tới nhà cô giáo. Bây giờ con bé Em tính trong đầu, tới bữa đó chắc nhiều bạn nữa, cho nên nó sẽ mặc cái áo đầm mới thắt nơ, bâu viền kim tuyến cho tụi bạn lé con mắt luôn.

Con Bích đang ngồi nướng bắp thế cho má nó đi sách cặn cho heo. Bé Em muốn khoe liền nhưng bày đặt nói gièm:

– Còn mấy ngày nữa Tết rồi hen, mầy có đồ mới chưa?

– Có, má tao đưa vải cho cô Ba thợ cắt rồi, má tao nói gần Tết đồ nhiều, dồn đống, chắc tới hai mươi tám mới lấy được.

– Vậy mầy được mấy bộ?

– Có một bộ hà.

Con bé Em trợn mắt:

– Ít quá vậy?

– Con Út Mót với Con Út Hết được hai bộ. Tao lớn rồi, nhường cho tụi nó.

– Vậy à?

Bé Em mất hứng hẳn, nó lựng khựng nửa muốn khoe, nửa muốn không.

Nhưng rõ ràng là con Bích không quên nó:

– Còn mầy?

– Bốn bộ. Má tao mua cho đủ mặc từ mùng Một tới mùng Bốn, bữa nào cũng mặc đồ mới hết trơn. Trong đó có bộ đầm hồng nổi lắm, hết sẩy luôn.

– Mầy sướng rồi.

Con Bích nói xong vẫn cười nhưng mắt nó xịu xuống, buồn hẳn. Nhà nó nghèo, sao bì được với nhà con bé Em. Hồi nhỏ nó chuyên mặc áo con trai của anh Hai nó để lại. Áo nó thì chuyền cho mấy đứa em, tới con Út Hết là đồ đã cũ mèm, mỏng tang, kéo nhẹ cũng rách. Được cái mấy chị em nó biết thân, lo học chớ không so đo chuyện cũ mới, má nó nói hoài, “Nhà mình nghèo quá hà, ráng vài năm nữa, khá giả rồi má sắm cho”. Con bé Em nhìn con Bích lom lom rồi cúi xuống, trở trở trái bắp nướng:

– Bộ đồ mầy may chắc đẹp lắm, bữa mùng Hai mầy mặc bộ đó đi nhà cô hen?

Rồi tới mùng một, mùng hai, bé Em lại rủ con Bích đi chơi. Hai đứa mặc đồ hơi giống nhau, chỉ khác là con Bích mặc áo trắng bâu sen, con bé Em thì mặc áo thun có in hình mèo bự. Cô giáo tụi nó khen:

– Coi hai đứa lớn hết trơn rồi, cao nhòng.

Hai đứa cười. Lúc đó con bé Em nghĩ thầm, mình mà mặc bộ đầm hồng, thế nào cũng mất vui. Bạn bè phải vậy chớ. Đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân. Nhưng Bích lại nghĩ khác, bé Em thương bạn như vậy, tốt như vậy, có mặc áo gì Bích vẫn quý bé Em. Thiệt đó.

(Nguyễn Ngọc Tư, theo isach.info)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại gì?

Câu 2. Xác định đề tài của văn bản "Áo Tết".

Câu 3. Chỉ ra các sự việc chính trong văn bản. Các sự việc trong văn bản được triển khai theo mạch nào?

Câu 4. Chi tiết chiếc áo đầm hồng là chi tiết tiêu biểu nhất trong văn bản. Em hãy phân tích ý nghĩa của chi tiết này trong việc thể hiện, bộc lộ tính cách các nhân vật.

Câu 5. Từ câu chuyện giữa bé Em và bé Bích, em rút ra được bài học gì về tình bạn và sự sẻ chia? (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng)

0
17 tháng 9

\(4^3-7^8:7^6+31\)

\(=64-5764801:117649+31\)

\(=64-\frac{5764801}{117649}+31\)

\(=64-49+31\) \(=46\)

17 tháng 9

4\(^3\) - \(7^8:7^6\) + 31

= 64 - 7\(^2\) + 31

= 64 - 49 + 31

= 15 + 31

= 46

17 tháng 9

Câu 1:

Trong văn bản “Bà má Hậu Giang”, nhân vật bà má là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Nam Bộ giàu lòng yêu nước, dũng cảm và đầy tình thương. Dù là một người nông dân bình dị, bà đã sẵn sàng nuôi giấu cán bộ, che chở cho cách mạng giữa muôn vàn hiểm nguy. Bà không chỉ lo cơm nước mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những người lính, như một người mẹ thực sự. Tình cảm của bà xuất phát từ trái tim chân thành, đầy bao dung và trách nhiệm với quê hương, đất nước. Qua hình ảnh bà má, người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của lòng yêu nước, đức hy sinh âm thầm của những bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến. Nhân vật bà má Hậu Giang đã để lại ấn tượng sâu đậm, thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân và cách mạng, đồng thời truyền cảm hứng cho các thế hệ sau về lòng yêu nước và nghĩa tình đồng bào.


Câu 2:

Từ câu chuyện về bà má Hậu Giang, thế hệ trẻ hôm nay cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước. Nếu như các thế hệ đi trước đã không tiếc máu xương để bảo vệ Tổ quốc, thì thế hệ trẻ ngày nay phải sống có lý tưởng, biết cống hiến bằng chính khả năng và hành động của mình.

Trách nhiệm ấy thể hiện trước hết ở việc học tập tốt, rèn luyện đạo đức, nâng cao hiểu biết để trở thành công dân có ích. Người trẻ cần chủ động tiếp thu tri thức mới, phát huy tinh thần sáng tạo, làm chủ công nghệ và khoa học để góp phần đưa đất nước phát triển. Đồng thời, mỗi người cũng cần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tránh xa lối sống lệch lạc, thiếu trách nhiệm với cộng đồng.

Hành động cụ thể có thể bắt đầu từ việc học tập nghiêm túc, tham gia hoạt động xã hội, tích cực bảo vệ môi trường, sống tử tế, nhân ái và có trách nhiệm. Chính những việc làm nhỏ mỗi ngày sẽ góp phần tạo nên sự thay đổi lớn, giúp đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Thế hệ trẻ cần tiếp bước cha ông bằng chính tinh thần nhiệt huyết, trung thực và khát vọng cống hiến.