K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 7

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

26 tháng 7

Bác sĩ – Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm: Trái tim yêu nước giữa chiến trường lửa đạn

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có biết bao người con ưu tú đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc. Một trong những hình ảnh đẹp và xúc động nhất là bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, người con gái Hà Nội mang trái tim nhân hậu đã để lại cho thế hệ sau một cuốn nhật ký đầy cảm xúc và lý tưởng sống cao đẹp.

Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Hà Nội, trong một gia đình trí thức. Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội, chị đã từ bỏ cuộc sống yên bình nơi đô thành để lên đường vào chiến trường ác liệt ở miền Nam. Năm 1966, chị tình nguyện vào công tác tại chiến trường Quảng Ngãi, làm bác sĩ cho lực lượng giải phóng. Giữa những năm tháng chiến tranh khốc liệt, chị không chỉ là người thầy thuốc giỏi mà còn là người mẹ, người chị hết lòng vì thương bệnh binh và nhân dân vùng giải phóng.

Điều đặc biệt ở bác sĩ Đặng Thùy Trâm chính là cuốn nhật ký mà chị viết trong những năm công tác. Những dòng chữ mộc mạc, chân thực đã ghi lại biết bao nỗi đau, sự hy sinh, khát vọng hòa bình và tình yêu Tổ quốc cháy bỏng. Trong đó, người đọc không chỉ thấy một bác sĩ mà còn là một người phụ nữ trẻ đầy nghị lực, dũng cảm vượt lên gian khó, luôn sống vì lý tưởng và đồng đội.

Ngày 22 tháng 6 năm 1970, chị anh dũng hy sinh khi mới 27 tuổi trong một trận càn của quân Mỹ. Cuốn nhật ký của chị được một người lính Mỹ tên là Frederic Whitehurst giữ lại và hơn 30 năm sau đã được trao lại cho gia đình chị. Khi được xuất bản năm 2005 với tên gọi "Nhật ký Đặng Thùy Trâm", cuốn sách đã gây xúc động mạnh mẽ cho hàng triệu độc giả trong và ngoài nước.

Cuộc đời bác sĩ Đặng Thùy Trâm tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng rực rỡ. Chị là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến: giàu lòng yêu nước, sống lý tưởng, đầy nhân hậu và hy sinh thầm lặng. Tấm gương của chị là nguồn cảm hứng để thế hệ trẻ hôm nay sống đẹp, sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Tham khảo

Tham khảo

Bác sĩ Đặng Thùy Trâm (1942 – 1970) là biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy cống hiến của chị để lại di sản vô giá về lòng yêu nước, ý chí kiên cường và y đức.

Tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội, chị xung phong vào chiến trường miền Nam khốc liệt, công tác tại Bệnh xá Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1967.

Tại đây, chị không quản hiểm nguy, tận tụy cứu chữa thương bệnh binh và nhân dân. Chị là bác sĩ giỏi chuyên môn, đồng thời là người chị, người bạn đầy tình thương. Trong hoàn cảnh thiếu thốn, chị vẫn kiên cường bám trụ, hoàn thành nhiệm vụ cao cả.

Những dòng nhật ký của chị, được tìm thấy sau này, lay động hàng triệu trái tim, thể hiện tâm hồn trong sáng, lòng nhân ái, ý chí sắt đá và tình yêu quê hương cháy bỏng.

Ngày 22/6/1970, bác sĩ Đặng Thùy Trâm anh dũng hy sinh ở tuổi 27. Tấm gương dũng cảm, tận hiến và y đức của chị đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, là ngọn lửa bất diệt nhắc nhở chúng ta về giá trị hòa bình và những con người đã hy sinh vì Tổ quốc.

26 tháng 7

Trần Đức Lương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1937 tại xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia cách mạng từ đầu năm 1955, vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 19/12/1959 .Trước khi bước vào chính trường, ông từng là kỹ sư địa chất, có nhiều năm nghiên cứu và công tác trong ngành địa chất ở miền Bắc

Ông lần lượt giữ các chức vụ quan trọng: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987–1992), Phó Thủ tướng Chính phủ (1992–1997) và được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam từ tháng 9/1997 đến tháng 6/2006. Trong thời gian này, ông cũng là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, thành viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII .

Với hơn nửa thế kỷ cống hiến, ông được đánh giá là nhà lãnh đạo kỹ trị, giản dị, cống hiến thầm lặng và gắn bó lâu dài với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Ông luôn đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên hết .

Ngày 20/5/2025, đồng chí Trần Đức Lương từ trần tại nhà riêng ở Hà Nội lúc 22 giờ 51 phút, hưởng thọ 88 tuổi. Lễ quốc tang được tổ chức trang trọng theo nghi thức Nhà nước trong hai ngày 24–25/5/2025, với sự tham gia của Ban Lễ tang cấp cao do Chủ tịch nước Lương Cường làm Trưởng ban

Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy hiệu cao quý khác, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc .

Trần Đức Lương sẽ mãi được nhớ đến như một hình mẫu lãnh đạo tận tâm, nêu gương về sự gắn bó với nhân dân, trách nhiệm với đất nước và lối sống khiêm tốn, giản dị trong mọi hoàn cảnh.

Tham khảo

Chủ tịch nước Trần Đức Lương (1937-2025) là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn đổi mới.

Ông Trần Đức Lương sinh tại Quảng Ngãi, trải qua nhiều cương vị quan trọng, từ cán bộ kỹ thuật đến Phó Thủ tướng và Chủ tịch nước (1997-2006).

Trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước, ông cùng tập thể lãnh đạo kiên định đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Ông đặc biệt quan tâm củng cố đại đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường vị thế Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam đạt nhiều thành tựu kinh tế - xã hội, duy trì ổn định chính trị và mở rộng quan hệ đối ngoại.

Chủ tịch nước Trần Đức Lương luôn được biết đến với phong cách làm việc sâu sát, giản dị, gần gũi và tấm lòng vì dân. Ông là nhà lãnh đạo có tầm nhìn, luôn đặt lợi ích quốc gia và hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng về sự cống hiến không ngừng nghỉ cho Tổ quốc. Dù ông đã đi xa, những đóng góp của ông sẽ mãi được ghi nhớ và trân trọng trong lịch sử dân tộc.

Tham khảo

26 tháng 7

I like to eat the food my mother cooks.

26 tháng 7

2187049 nha bạn

26 tháng 7

2187049 nha bạn

98 364 + 26271 =124,635

26 tháng 7

124,635 nhéchij

25 tháng 7

soạn bài ra học thuộc rồi luyện cách nhấn âm ,thêm cả tự tin nữa là oki

Để thi nói Tiếng Anh tốt, bạn cần tập trung vào các điểm sau:

  • Luyện phát âm và ngữ điệu
  • Mở rộng từ vựng theo chủ đề
  • Thực hành nói thường xuyên
  • Hiểu rõ cấu trúc bài thi:Nắm vững các phần thi, thời gian và tiêu chí chấm điểm để chuẩn bị phù hợp.
  • Tự tin và bình tĩnh
  • Không học thuộc lòng
  • Luyện tập tư duy bằng tiếng Anh

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 – 4/10/2013) là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, một vị tướng tài ba được cả thế giới ngưỡng mộ. Ông không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị, nhà văn hóa lớn, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước.

Về ngoại hình, Đại tướng có vóc dáng thanh mảnh nhưng toát lên vẻ cương nghị, uy nghiêm. Đôi mắt ông sáng, tinh anh, thể hiện sự thông tuệ và quyết đoán. Nụ cười hiền hậu, gần gũi nhưng ẩn chứa sự kiên định. Dù tuổi cao, ông vẫn giữ phong thái điềm đạm, trí tuệ minh mẫn.

Tầm vóc vĩ đại của Đại tướng nằm ở trí tuệ quân sự phi thường và đạo đức cách mạng trong sáng. Ông là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với tài năng thao lược, khả năng phân tích sắc bén và ý chí sắt đá, ông đã chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, làm nên chiến thắng "chấn động địa cầu".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn được biết đến với biệt danh "Vị tướng của nhân dân". Ông luôn gần gũi, thấu hiểu và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Tấm lòng nhân ái, sự giản dị và đức độ của ông đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Ông là biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí quật cường và khát vọng hòa bình.

Sự ra đi của Đại tướng là mất mát lớn lao, nhưng di sản và tinh thần của ông vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Ông mãi mãi là một huyền thoại, một tấm gương sáng về tài năng, đức độ và lòng yêu nước.

Tham khảo

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dền (1929 - 15/2/1943), là người đội trưởng đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Sinh ra tại làng Nà Mạ, Cao Bằng, Kim Đồng sớm bộc lộ sự nhanh nhẹn, thông minh và lòng yêu nước mãnh liệt.

Ngay từ nhỏ, em đã tích cực tham gia cách mạng, làm nhiệm vụ liên lạc, trinh sát, canh gác, đưa thư cho cán bộ Việt Minh. Với sự khéo léo và dũng cảm, Kim Đồng thường ngụy trang bằng cách bắt cá, chăn trâu để qua mắt địch, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ nguy hiểm được giao.

Ngày 15 tháng 2 năm 1943, trong một lần đi liên lạc, Kim Đồng phát hiện địch đang vây bắt cán bộ. Không chút do dự, em đã nhanh trí lừa địch, chạy về phía suối Lê-nin, đánh lạc hướng chúng để bảo vệ an toàn cho đồng chí cán bộ. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi mới 14 tuổi.

Cái chết của Kim Đồng là một tấm gương sáng ngời về lòng dũng cảm, tinh thần hy sinh vì Tổ quốc của tuổi thiếu niên Việt Nam. Tên tuổi của em mãi mãi đi vào lịch sử, là niềm tự hào và tấm gương để các thế hệ đội viên noi theo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước và ý chí đấu tranh kiên cường. Từ làng Sen, Nghệ An, Người đã sớm nuôi hoài bão giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ.

Năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba khắp thế giới để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn. Trở về Tổ quốc năm 1941, Người đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân giành độc lập trong Cách mạng tháng Tám 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo của Người, dân tộc ta đã vượt qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại, giành lại tự do, thống nhất đất nước.

Không chỉ là nhà lãnh đạo thiên tài, Bác Hồ còn là tấm gương sáng ngời về đạo đức. Cuộc đời Người là hiện thân của sự giản dị, khiêm tốn, và tấm lòng yêu thương nhân dân vô bờ bến, luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.

Dù Người đã đi xa, nhưng tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, là kim chỉ nam soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.


25 tháng 7

Trên bầu trời lịch sử Việt Nam, có một ngôi sao sáng không bao giờ lụi tắt – đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, mà còn là ánh sáng soi đường cho cả nhân loại yêu chuộng hòa bình và tự do. Bác sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – một vùng quê nghèo nhưng giàu truyền thống yêu nước. Từ tuổi thiếu niên, Bác đã nuôi chí lớn, ra đi tìm đường cứu nước với mong muốn đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào.

Hành trình hơn 30 năm bôn ba nơi xứ người của Bác là minh chứng cho tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí kiên cường và trí tuệ vượt bậc. Người đã học hỏi tinh hoa văn hóa nhân loại, tìm đến con đường cách mạng vô sản, lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam – ngọn cờ dẫn lối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Bác, dân tộc ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Không chỉ là một nhà lãnh tụ kiệt xuất, Bác Hồ còn là một con người giản dị, gần gũi và đầy lòng yêu thương. Người sống thanh bạch, cần kiệm và luôn quan tâm đến từng người dân, từng chiến sĩ. Những lời dạy của Bác như “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” hay “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều thế hệ người Việt Nam noi theo.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ từ trần trong niềm tiếc thương vô hạn của toàn thể dân tộc. Dù Người đã ra đi, nhưng tinh thần và tư tưởng của Bác vẫn sống mãi trong trái tim mỗi người con đất Việt. Để tưởng nhớ công lao trời biển của Người, nhân dân ta đã xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình – nơi từng chứng kiến thời khắc thiêng liêng Bác đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Lăng Bác chính thức được khánh thành – trở thành nơi hội tụ niềm tin, lòng kính yêu và biết ơn của nhân dân cả nước.

Hằng ngày, dòng người từ khắp mọi miền tổ quốc, từ những em học sinh nhỏ bé đến các cụ già tóc bạc, đều lặng lẽ xếp hàng vào Lăng viếng Bác. Trước di hài của Người, ai ai cũng nghẹn ngào xúc động, nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Bác, tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh.

Hồ Chí Minh – Người là kết tinh của tinh thần dân tộc và thời đại, là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước, ý chí tự lực và nhân ái bao la. Hình ảnh Bác giản dị trong bộ kaki, đôi dép cao su mộc mạc và nụ cười hiền từ sẽ mãi mãi sống trong lòng mỗi người dân Việt Nam như một ánh sáng không bao giờ tắt.