Kể chuyện bánh chưng bánh dầy
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Câu mệnh lệnh gián tiếp là câu dùng để thuật lại một mệnh lệnh, yêu cầu, lời khuyên, lời nhắc nhở… mà người khác đã nói, không nói lại y nguyên như câu trực tiếp, mà dùng cách gián tiếp để truyền đạt lại.
🔹 1. Câu mệnh lệnh trực tiếp là gì?
Là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu ai đó làm việc gì, thường dùng động từ nguyên mẫu, ví dụ:
- "Close the door!" (Đóng cửa lại!)
- "Don’t talk!" (Đừng nói chuyện!)
🔹 2. Câu mệnh lệnh gián tiếp là gì?
Là cách thuật lại mệnh lệnh đó, thường dùng cấu trúc với “tell,” “ask,” “advise,” “order,”… kèm theo to V hoặc not to V.
🔹 3. Cấu trúc câu mệnh lệnh gián tiếp:
- S + told / asked / ordered + O + to V (nguyên mẫu)
👉 để yêu cầu làm gì - S + told / asked / warned + O + not to V
👉 để yêu cầu không làm gì
🔸 Ví dụ:
Câu trực tiếp | Câu mệnh lệnh gián tiếp |
---|---|
She said, “Sit down.” | She told me to sit down . |
He said, “Don’t be late.” | He told me not to be late . |
The teacher said, “Open your book.” | The teacher told us to open our book . |
Mom said, “Clean your room!” | Mom told me to clean my room . |

Nếu có group OLM thì bạn có tgia không, và hãy kết bạn với tôi
Dịch đơn giản là như vậy nhé

Số học sinh trong lớp hôm nay là:
32 - 3 = 29(học sinh)
Đáp số: 29 học sinh

Dưới đây là một bài thuyết minh về quyển sách Ngữ văn 8 – Tập 2 – bộ sách Cánh Diều được viết theo phong cách phù hợp với học sinh THCS:
Bài thuyết minh về sách Ngữ văn 8 – Tập 2 – bộ Cánh Diều
Trong hành trình học tập của học sinh lớp 8, sách Ngữ văn 8 – Tập 2 (thuộc bộ sách giáo khoa Cánh Diều) là người bạn đồng hành thân thiết, giúp các em nâng cao khả năng đọc hiểu, viết và cảm thụ văn học. Cuốn sách không chỉ cung cấp kiến thức ngữ văn mà còn nuôi dưỡng tâm hồn, bồi đắp tình yêu quê hương, con người, và cuộc sống.
1. Xuất xứ và đặc điểm chung
Sách Ngữ văn 8 – Tập 2 thuộc bộ sách Cánh Diều – một trong các bộ sách giáo khoa mới theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh phát hành. Sách được biên soạn bởi các tác giả là những nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu uy tín trong lĩnh vực giáo dục và ngữ văn.
2. Cấu trúc và nội dung chính
Sách gồm nhiều bài học đa dạng, được chia theo chủ đề, giúp học sinh phát triển toàn diện các năng lực:
- Đọc hiểu văn bản: Văn bản trong sách gồm cả văn học Việt Nam và nước ngoài, như truyện ngắn, thơ, kịch, văn nghị luận... Các văn bản đều gần gũi với đời sống và mang giá trị giáo dục cao.
- Viết: Học sinh được rèn luyện nhiều kiểu bài như viết đoạn văn nghị luận, viết bài văn thuyết minh, viết bài trình bày ý kiến…
- Nói và nghe: Các hoạt động luyện nói, thảo luận nhóm, trình bày ý kiến giúp học sinh tự tin giao tiếp.
- Ngữ pháp – tiếng Việt: Kiến thức ngữ pháp như câu ghép, dấu câu, liên kết câu… được đưa vào một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu.
3. Ưu điểm nổi bật
- Trình bày đẹp, rõ ràng, nhiều hình ảnh minh họa sinh động.
- Cách thiết kế bài học hiện đại, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích sự sáng tạo và tư duy phản biện.
- Các bài tập và câu hỏi hướng dẫn khơi gợi tư duy, không mang tính áp đặt.
- Nội dung sách gắn với cuộc sống thực tế, giúp học sinh vừa học vừa rèn nhân cách.
4. Ý nghĩa của quyển sách
Cuốn sách không chỉ là tài liệu học tập mà còn là cầu nối đưa học sinh đến với văn hóa, con người và vẻ đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt. Qua từng trang sách, các em không chỉ học cách phân tích văn bản, mà còn học cách làm người, biết yêu thương và sống có trách nhiệm hơn.
Kết luận
Sách Ngữ văn 8 – Tập 2 – Cánh Diều là một công cụ học tập quan trọng, góp phần hình thành phẩm chất và năng lực học sinh trong thời đại mới. Việc học và tiếp cận cuốn sách này một cách tích cực sẽ giúp học sinh không chỉ học tốt môn Ngữ văn mà còn phát triển kỹ năng sống cần thiết.

Giải:
Phân số chỉ số học sinh nam lớp 4B là:
1 - \(\frac17\) = \(\frac67\) (số học sinh cả lớp)
Số học nam là:
35 x \(\frac67\) = 30 (học sinh)
Đáp số: 30 học sinh.
Lớp 4B có số học sinh nữ là:
35 : 7 = 5 ( học sinh )
Lớp 4B có số học sinh nam là:
35 - 5 = 30 ( học sinh )
Đáp số : 30 học sinh nam.
ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu[1] có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành"
Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Giầy[2]. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Giầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ sáu, nhà vua muốn tìm người kế vị. Vua có rất nhiều hoàng tử, mỗi người một vẻ. Vua bèn gọi các con lại và bảo: "Ta muốn truyền ngôi cho người nào tìm được món ăn vừa ý ta để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày đầu năm."
Các hoàng tử đua nhau đi khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ. Người thì lên rừng săn thú quý, người thì xuống biển mò hải sản. Ai nấy đều muốn mang về những thứ độc đáo nhất để dâng lên vua cha.
Trong số các hoàng tử có Lang Liêu, người con thứ mười tám. Chàng vốn hiền lành, chất phác, không có của ngon vật lạ để dâng vua. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy một vị thần mách bảo: "Vật quý ở đời không đâu bằng gạo. Hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn tượng trưng cho trời, và bánh hình vuông tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá xanh bọc ngoài, lấy đậu xanh làm nhân ở trong, tượng trưng cho cây cỏ muông thú."
Tỉnh dậy, Lang Liêu làm theo lời thần dặn. Chàng chọn gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon nhất, vo thật kỹ. Lá dong xanh mướt được rửa sạch. Đậu xanh được đồ chín, giã nhuyễn. Thịt lợn ba chỉ được ướp gia vị đậm đà. Tất cả được gói ghém cẩn thận trong những chiếc lá dong vuông vắn, buộc lạt lề. Đó là bánh chưng.
Rồi Lang Liêu lại lấy gạo nếp đồ chín, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn, trắng mịn như bông. Đó là bánh dày.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều mang sơn hào hải vị đến dâng vua. Vua Hùng nếm thử các món ăn, nhưng vẫn chưa thấy vừa ý. Cuối cùng, vua cho gọi Lang Liêu và xem những chiếc bánh giản dị của chàng.
Khi Lang Liêu dâng bánh chưng bánh dày, vua Hùng rất ngạc nhiên. Lang Liêu đã giải thích ý nghĩa của từng loại bánh. Vua nếm thử, thấy bánh dẻo thơm, đậm đà hương vị đồng quê thì vô cùng hài lòng.
Vua Hùng phán rằng: "Bánh của Lang Liêu quý giá hơn cả. Nó tượng trưng cho trời đất, lại thể hiện được tấm lòng thành kính đối với tổ tiên."
Thế là, Lang Liêu được vua Hùng truyền ngôi. Từ đó, bánh chưng bánh dày trở thành những món ăn truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta, để tưởng nhớ công ơn của vua Hùng và Lang Liêu.