Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung phần đọc – hiểu em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những việc cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại.
Câu 2 (4,0 điểm): Phân tích truyện ngắn sau:
MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI
Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước mặt một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy.
Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lóa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy.
Chúng tôi nhao nhao:
– Bán cho con một táng đường, bà.
– Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.
Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi.
Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến mất đâu. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến cho tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được “ăn ghẹ” của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại...
– Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? – Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi.
– Tao không có tiền.
Bá cười sằng sặc:
– Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.
Tôi ngạc nhiên:
– Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì?
Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra mấy tờ giấy đã viết, được cắt gọn ghẽ như những tờ giấy bạc, nói thì thầm:
– Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bà đâu có thấy. – Nó ngừng một lát rồi nói tiếp, – Tao có ba tờ tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua cuối cùng mình mới mua.
Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ “bạc giả” của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng loé lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa đường táng đen cho tôi.
Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không thấy có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng túm lại dưới quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giờ cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền vừa nói vọng ra:
– Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.
Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì quay vô nhà nói với ai đó:
– Số tiền này vừa đủ mua một chiếc chiếu gói bả đấy. – Im lặng một lúc rồi bác tiếp – Bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra... Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt.
Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi cũng không còn đông đủ như trước. Có những đứa vốn ngỗ ngược, sau này lại trở thành những du kích dũng cảm và hi sinh. Có nhiều đứa theo gia đình, bỏ quê xứ đi làm ăn xa. Thằng Bá bây giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày trên những rộc cát khô khốc mong tìm từng củ khoai để nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đứa đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ...
Trong đời, có những điều ta đã lầm lỡ, không bao giờ còn có dịp để sửa chữa được nữa.
(Trích 65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, Thanh Quế, NXB Kim Đồng)
Câu 1: Đại dương bao la, nguồn sống của hành tinh, đang gửi gắm những lời thỉnh cầu khẩn thiết đến con người qua bao dấu hiệu suy thoái. Để đáp lại tiếng gọi ấy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần hành động bằng sự thấu hiểu và trách nhiệm. Điều đầu tiên cần làm là thay đổi nhận thức về mối quan hệ giữa con người và đại dương. Không còn là sự khai thác vô tận, biển cả cần được nhìn nhận như một hệ sinh thái mong manh, cần được bảo vệ và tôn trọng. Hành động cụ thể cần tập trung vào giảm thiểu ô nhiễm, từ rác thải nhựa đến hóa chất độc hại đổ ra biển khơi. Các biện pháp quản lý khai thác tài nguyên biển bền vững cần được ưu tiên, tránh tình trạng đánh bắt quá mức làm cạn kiệt nguồn lợi. Bên cạnh đó, việc bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng như rừng ngập mặn, rạn san hô cần được đẩy mạnh, tạo môi trường sống an toàn cho các loài sinh vật biển. Quan trọng hơn cả, sự chung tay của cả cộng đồng là yếu tố quyết định. Mỗi cá nhân cần ý thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ đại dương, từ những hành động nhỏ nhất như giảm thiểu sử dụng đồ nhựa, đến việc lên tiếng ủng hộ các chính sách bảo vệ môi trường biển. Chỉ khi có sự đồng lòng và hành động quyết liệt, con người mới có thể đáp lại lời thỉnh cầu của đại dương, bảo vệ tương lai của chính mình và hành tinh này. Câu 2: Đoạn thơ trong bài "Đất nước" của Tạ Hữu Yên là một khúc ca xúc động và sâu lắng về hình ảnh đất nước và người mẹ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh gian khổ. Với thể thơ tự do giàu nhạc điệu, ngôn ngữ dung dị mà hàm súc, tác giả đã khắc họa một cách chân thực và cảm động vẻ đẹp kiên cường, tình yêu thương vô bờ bến của đất nước và người mẹ. Mở đầu đoạn thơ, hình ảnh "Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu" gợi lên một vẻ đẹp thanh tao, mềm mại nhưng cũng đầy ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng. So sánh đất nước với "giọt đàn bầu" không chỉ thể hiện hình dáng cong cong của dải đất hình chữ S mà còn gợi liên tưởng đến âm thanh độc đáo, ngân nga, da diết như tiếng lòng của dân tộc. Tiếp theo, câu thơ "Nghe dịu nỗi đau của mẹ" như một sự thấu cảm sâu sắc với những mất mát, hy sinh mà người mẹ Việt Nam phải gánh chịu trong chiến tranh. Hình ảnh "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ" là một chi tiết cụ thể, đầy xót xa, thể hiện sự kiên cường nén chặt nỗi đau của người mẹ khi tiễn những đứa con yêu dấu lên đường chiến đấu. Sự lặng im của mẹ ("Các anh không về, mình mẹ lặng im") càng làm nổi bật nỗi đau âm ỉ, kéo dài, trở thành một phần máu thịt của người mẹ và cũng là nỗi đau chung của cả dân tộc. Khổ thơ tiếp theo mở ra một góc nhìn khác về đất nước, không chỉ là nỗi đau mà còn là sức mạnh phi thường từ những ngày còn "nằm nôi". Hình ảnh đất nước "Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa" là một ẩn dụ mạnh mẽ, thể hiện sự kiên cường, bất khuất của dân tộc trong việc đối mặt với mọi thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh. Giữa những gian lao ấy, vẫn vang lên "Lao xao trưa hè một giọng ca dao" – một nét đẹp văn hóa truyền thống, một sự lạc quan, yêu đời tiềm ẩn trong tâm hồn người Việt. Điệp khúc "Xin hát về Người, đất nước ơi! Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi!" vang lên như một lời tri ân, một sự tôn kính sâu sắc đối với đất nước và người mẹ. Hình ảnh người mẹ "Suốt đời lam lũ / Thương lũy tre làng bãi dâu, bến nước / Yêu trọn tình đời, muối mặn gừng cay" là một bức chân dung chân thực, giản dị mà cao đẹp. Sự lam lũ, tần tảo của mẹ gắn liền với những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước. Tình yêu thương của mẹ không chỉ dành cho con cái mà còn bao trùm cả "tình đời", chấp nhận cả những khó khăn, gian khổ ("muối mặn gừng cay"). Khổ thơ cuối tiếp tục khắc họa sự hy sinh thầm lặng mà vĩ đại của người mẹ trong những năm tháng "Mấy mùa không ngủ / Ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc". Hình ảnh "Vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con" là một chi tiết đầy xúc động, thể hiện sự gồng gánh, chở che của mẹ cho cả gia đình và đất nước trong hoàn cảnh khó khăn. Kết thúc đoạn thơ, hình ảnh "Đất nước tôi / Sáng ngời muôn thuở / Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ" mang đến một cảm xúc lắng đọng và tự hào. Vẻ đẹp của đất nước không chỉ là sự kiên cường trong chiến đấu mà còn là vẻ đẹp tiềm ẩn, vĩnh hằng, khơi gợi những cảm xúc thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người. "Trăng đã vào cửa sổ đòi thơ" là một hình ảnh lãng mạn, gợi lên sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện thực và vẻ đẹp tinh thần của đất nước. Tóm lại, đoạn thơ của Tạ Hữu Yên đã vẽ nên một bức tranh vừa bi tráng vừa trữ tình về đất nước và người mẹ Việt Nam. Bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và cảm xúc, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc lòng yêu nước, sự biết ơn đối với những hy sinh thầm lặng và vẻ đẹp精神 của dân tộc. Đoạn thơ không chỉ là một khúc ca về quá khứ mà còn là lời nhắc nhở về những giá trị thiêng liêng cần được trân trọng và gìn giữ.