K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 11 2024

câu 1 :

Việc gìn giữ những giá trị truyền thống của dân tộc là điều vô cùng quan trọng trong xã hội hiện đại. Những giá trị này không chỉ là bản sắc văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc, mà còn là nền tảng vững chắc giúp mỗi cá nhân định hướng cuộc sống và phát triển bền vững. Giá trị truyền thống như tôn trọng gia đình, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, hay các lễ hội, phong tục tập quán đã được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Chúng góp phần xây dựng nên một cộng đồng vững mạnh, giữ cho các thế hệ trẻ hiểu rõ về cội nguồn, tự hào về dân tộc, và có trách nhiệm bảo vệ và phát huy những giá trị ấy. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những giá trị truyền thống càng cần được giữ gìn để không bị phai mờ, giúp mỗi dân tộc duy trì sự riêng biệt và bản sắc văn hóa đặc sắc của mình. Đặc biệt, việc bảo tồn các giá trị truyền thống còn giúp tạo nên sự ổn định trong xã hội, nuôi dưỡng tâm hồn và tạo động lực để chúng ta vươn tới tương lai.

câu 2:

Bài văn nghị luận phân tích bài thơ "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương

Bài thơ "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương, qua vài câu ngắn gọn, đã bộc lộ một cách tinh tế những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về mối quan hệ giữa con người và tình yêu. Với sự mộc mạc của lời thơ, Hồ Xuân Hương đã khéo léo sử dụng hình ảnh "trầu" để gửi gắm những suy tư về tình duyên, tình yêu, đồng thời thể hiện quan điểm của mình về sự gắn bó và duyên nợ giữa con người với nhau.

Về nội dung:

Bài thơ mở đầu với hình ảnh "quả câu nho nhỏ miếng trầu hôi" – đây là hình ảnh gợi nhắc về miếng trầu, một biểu tượng đặc trưng trong đời sống văn hóa của người Việt. Miếng trầu không chỉ là một thức quà bình dị trong giao tiếp mà còn là biểu tượng của sự gắn kết, của tình nghĩa. Câu thơ đầu tiên không chỉ nói về miếng trầu mà còn có thể hiểu là lời mời gọi, mở ra một không gian giao tiếp, một dịp để gắn kết tình cảm.

Tiếp đến, câu thơ "Này của Xuân Hương mới quệt rồi" mang một âm điệu tự nhiên, giản dị nhưng cũng rất duyên dáng, như thể tác giả đang tự mời mình vào một cuộc trò chuyện, một cuộc đối thoại sâu sắc với người đọc. "Xuân Hương" ở đây không chỉ là tên tác giả mà còn mang nghĩa biểu tượng cho một người phụ nữ đang mời gọi tình yêu, một tình cảm nồng nàn, chân thành.

Câu thơ thứ ba, "Có phải duyên nhau thì thắm lại," cho thấy quan niệm của tác giả về tình yêu, về mối quan hệ giữa hai người. "Duyên" ở đây được hiểu như một điều kiện cần thiết, một yếu tố không thể thiếu để tình yêu nảy nở và bền chặt. Duyên không phải là sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà là một mối liên kết sâu xa giữa hai tâm hồn, giúp họ vượt qua những thử thách, khó khăn trong cuộc sống.

Câu cuối, "Đừng xanh như lá, bạc như vôi," là một hình ảnh ẩn dụ đầy sâu sắc. "Xanh như lá" có thể hiểu là tình yêu non nớt, thiếu sự chín muồi, dễ dàng phai tàn khi gặp phải thử thách. "Bạc như vôi" lại là hình ảnh của sự phai nhạt, tan biến sau thời gian dài, không còn gì nguyên vẹn. Câu thơ này là lời nhắc nhở về sự bền vững của tình yêu, rằng tình yêu không chỉ cần duyên mà còn cần sự chung thủy, bền bỉ để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Tình yêu ấy cần phải "thắm lại," nghĩa là phải nuôi dưỡng và chăm sóc để mãi mãi tươi đẹp.

Về nghệ thuật:

Bài thơ "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống, với nhịp điệu nhẹ nhàng, du dương nhưng cũng không thiếu sự sâu sắc, tinh tế. Thể thơ này giúp bài thơ dễ dàng đi vào lòng người đọc, đồng thời thể hiện sự mượt mà, dịu dàng, phù hợp với nội dung tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm.

Hồ Xuân Hương sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng, đậm chất văn hóa dân gian như "trầu" và "quả câu" để truyền tải thông điệp về tình yêu, sự gắn kết giữa con người. Sự lựa chọn những hình ảnh giản dị nhưng đầy hàm ý đã khiến bài thơ không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Câu cú trong bài thơ rất gợi cảm và ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Cách sử dụng hình ảnh "xanh như lá, bạc như vôi" thể hiện sự am hiểu sâu sắc của tác giả về sự mong manh của tình cảm con người, cũng như những biến chuyển của tình yêu trong cuộc đời. Từ đó, bài thơ không chỉ là một lời mời trầu đơn giản mà còn là một lời nhắn nhủ, một suy ngẫm về tình yêu và mối quan hệ giữa người với người.

Kết luận:

Qua bài thơ "Mời trầu," Hồ Xuân Hương đã khéo léo kết hợp giữa hình ảnh giản dị và những thông điệp sâu sắc về tình yêu, về sự gắn bó giữa con người với nhau. Bài thơ không chỉ làm sáng tỏ quan niệm của tác giả về tình yêu mà còn thể hiện sự tinh tế trong việc lựa chọn hình ảnh, ngôn từ. Tác phẩm này đã chứng minh tài năng của Hồ Xuân Hương trong việc vận dụng ngôn ngữ thơ để phản ánh những vấn đề sâu xa của cuộc sống, tình yêu và con người, đồng thời làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

(4 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Có phải người châu Á là tổ tiên của người châu Úc?       Lục địa châu Úc là một hòn đảo lớn với bốn mặt giáp biển, khi nhà hàng hải châu Âu đầu tiên phát hiện ra nó thì đã có rất nhiều thổ dân sống ở đây. Họ bé nhỏ hơn rất nhiều so với những người da trắng, họ có làn da màu nâu đen, tóc màu...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Có phải người châu Á là tổ tiên của người châu Úc?

      Lục địa châu Úc là một hòn đảo lớn với bốn mặt giáp biển, khi nhà hàng hải châu Âu đầu tiên phát hiện ra nó thì đã có rất nhiều thổ dân sống ở đây. Họ bé nhỏ hơn rất nhiều so với những người da trắng, họ có làn da màu nâu đen, tóc màu đen, họ sống cuộc sống nguyên thủy dựa vào đi săn và hái lượm. Cùng với sự khai thác lục địa châu Úc, đã có một số lượng lớn người di cư đến đây, số lượng người thổ dân ngày càng giảm đi và hiện nay khó có thể tìm ra tung tích của họ. Vì vậy họ đã để lại cho chúng ta một câu đố mãi mãi không có lời giải đáp: Tổ tiên của những người thổ dân đó là ai? Lẽ nào họ có nguồn gốc ở trên hòn đảo lẻ loi này sao?

      Tổ tiên của người thổ dân châu Úc là người châu Á.

     Ban đầu, dựa vào đặc điểm hình dáng bên ngoài và phương thức sống của những người thổ dân châu Úc, mọi người phán đoán rằng chắc họ là một tộc người cổ xưa cũng có nguồn gốc độc lập, tự hình thành hệ thống giống như những tộc người khác ở trên đất liền. Nhưng cùng với những phát hiện không ngừng của các nhà khảo cổ học, một số những dấu tích được tìm thấy ở trong lòng đất khiến mọi người bắt đầu có những nghi ngờ về những quan điểm trước đây, trong đó có một quan điểm mới như sau: Tổ tiên của người thổ dân châu Úc đó đến từ châu Á.

     Quan hệ giữa lục địa châu Úc và lục địa châu Á.

     Bốn mươi nghìn năm trước, mực nước biển xung quanh châu Úc thấp hơn hai trăm mét so với hiện nay, lúc đó, một số hòn đảo ở phía Bắc châu Úc lộ ra và nối liền với châu Á. Những người đi biển đã đi qua rất nhiều hòn đảo nhỏ, cuối cùng đến được lục địa châu Úc và bắt đầu cuộc sống mới. Chỉ đến khi sống ở đó sau hai mươi nghìn năm, mực nước biển dâng lên, châu Úc và lục địa châu Á mới không còn liên hệ gì nữa. Cuộc sống canh nông của người châu Á cũng không có cách nào để đi thuyền sang châu Úc, cho nên người dân châu Úc vẫn phải sống cuộc sống săn bắt và hái lượm như thời nguyên thủy. Do đó, tổ tiên của người châu Úc chính là người châu Á. Quan điểm này cũng có một số khảo cổ để chứng minh, nhưng không đủ tính xác thực tỉ mỉ hoàn toàn. Tuy nhiên, có một người đưa ra những nghi ngờ về việc người châu Á là tổ tiên của người châu Úc. Họ cho rằng: Đặc trưng hình dáng bên ngoài của người châu Úc và người châu Á có những điểm khác biệt lớn, nói họ có quan hệ cội nguồn là không đáng tin. Những điểm khác biệt này là kết quả biến dị gen di truyền của loài người mấy chục nghìn năm trở lại đây hay sao?

Ngữ văn 10, Đọc hiểu văn bản thông tin, OLM

 Ảnh: Thổ dân châu Úc

     Thật đáng tiếc, sau khi những kẻ thực dân giẫm gót sắt của mình lên mảnh đất này, di dân của các nước cũng không ngừng đến nơi đây, sự xâm nhập và ngấm dần nền văn minh hiện đại đã làm cho những người thổ dân nơi đây không những giảm mạnh về số lượng mà những thói quen trước đây của họ cũng dần dần thay đổi. Vì thế, muốn làm sáng tỏ lịch sử của những người thổ dân là một vấn đề rất khó. Có lẽ chúng ta vĩnh viễn cũng không thể có cơ hội làm rõ tổ tiên của những người thổ dân này rốt cục là ai. Cũng giống như loài người từ trước đến nay vẫn còn nằm trong vòng tìm hiểu nghiên cứu nguồn gốc, thì đối với tổ tiên của người châu Úc cũng sẽ vẫn là một vấn đề tranh luận không dứt, mãi mãi là một câu đố lớn không có lời giải đáp.

(Trích Những bí ẩn trên thế giới chưa được giải đáp, Nguyễn Văn Huân, NXB Dân trí, 2018)

Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Câu 2. Chỉ ra những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Câu 3. Mục đích của tác giả qua bài viết này là gì?

Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản.

Câu 5. Nhận xét, đánh giá cách trình bày thông tin và quan điểm của tác giả qua văn bản. 

1
30 tháng 11 2024
Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh kết hợp nghị luận. Đây là một văn bản thuyết minh khi tác giả giới thiệu, giải thích về lịch sử, nguồn gốc của người thổ dân châu Úc, đồng thời cũng có những quan điểm, lập luận để đưa ra vấn đề tranh luận và lý giải về nguồn gốc của người châu Úc.

Câu 2. Chỉ ra những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Văn bản sử dụng các phương thức biểu đạt chủ yếu sau:

  1. Thuyết minh: Tác giả giải thích về sự hình thành, sự tồn tại của người thổ dân châu Úc, giới thiệu các giả thuyết về tổ tiên của họ, cũng như các phát hiện khảo cổ học liên quan.
  2. Nghị luận: Tác giả đưa ra các quan điểm và tranh luận về nguồn gốc của người thổ dân châu Úc, với các quan điểm đối lập về việc người châu Á có phải là tổ tiên của người thổ dân châu Úc hay không.
  3. Miêu tả: Tác giả miêu tả về đặc điểm ngoại hình và đời sống của người thổ dân châu Úc, tạo hình ảnh sinh động về họ.
  4. Tường thuật: Tác giả kể lại các sự kiện lịch sử và phát hiện khảo cổ học để chứng minh cho quan điểm của mình.
Câu 3. Mục đích của tác giả qua bài viết này là gì?

Mục đích của tác giả qua bài viết này là:

  • Giới thiệu và thảo luận về nguồn gốc của người thổ dân châu Úc, những giả thuyết khác nhau về tổ tiên của họ.
  • Khơi dậy sự tò mò và suy ngẫm cho người đọc về câu hỏi "Tổ tiên của người thổ dân châu Úc là ai?" và nhấn mạnh rằng vấn đề này vẫn chưa có lời giải đáp rõ ràng.
  • Trình bày quan điểm của tác giả về giả thuyết người châu Á là tổ tiên của người thổ dân châu Úc, cùng với các lập luận và phản biện từ các ý kiến trái chiều.
Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản.

Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là hình ảnh (ảnh minh họa về người thổ dân châu Úc).

  • Tác dụng: Hình ảnh giúp người đọc hình dung rõ hơn về đặc điểm ngoại hình của người thổ dân châu Úc, làm cho nội dung bài viết thêm sinh động và dễ hiểu. Hình ảnh này hỗ trợ việc tạo sự kết nối giữa lý thuyết và thực tế, cũng như giúp người đọc cảm nhận một cách trực quan về đối tượng mà bài viết đang thảo luận.
Câu 5. Nhận xét, đánh giá cách trình bày thông tin và quan điểm của tác giả qua văn bản.

Nhận xét:

  • Cách trình bày thông tin: Tác giả trình bày thông tin một cách logic, rõ ràng. Các quan điểm, giả thuyết được nêu ra một cách mạch lạc, có dẫn chứng từ các phát hiện khảo cổ học và những sự kiện lịch sử. Văn bản có sự phân tích và đối chiếu giữa các ý kiến trái ngược nhau về nguồn gốc của người thổ dân châu Úc.

  • Quan điểm của tác giả: Tác giả giữ một thái độ khách quan và cởi mở, không khẳng định chắc chắn mà chỉ đưa ra các giả thuyết và tranh luận về vấn đề nguồn gốc của người thổ dân châu Úc. Điều này thể hiện sự tôn trọng các ý kiến khác nhau và tạo ra không gian cho người đọc tự suy nghĩ, đánh giá.

Đánh giá:

  • Văn bản khá chặt chẽ về mặt lập luận, cung cấp thông tin phong phú và đa chiều về nguồn gốc của người thổ dân châu Úc.
  • Tác giả khéo léo kết hợp giữa thông tin khoa học và suy luận cá nhân, từ đó tạo ra một văn bản thuyết phục và có tính kích thích tư duy.
(4 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:       (Lược một đoạn: Đăm Săn cùng tôi tớ vào rừng chặt cây thần.)      Tôi tớ: “Cây xờ-múc, cây xờ-mun, những cây gốc không thấy, ngọn không có, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó ông ạ. Đó là cây xờ-múc ở phía đông nhà, là cây pơ-lang ở phía tây hiên, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

     (Lược một đoạn: Đăm Săn cùng tôi tớ vào rừng chặt cây thần.)

     Tôi tớ: “Cây xờ-múc, cây xờ-mun, những cây gốc không thấy, ngọn không có, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó ông ạ. Đó là cây xờ-múc ở phía đông nhà, là cây pơ-lang ở phía tây hiên, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó ông ạ. Đó là những cây gốc trong suối, thân trong thung, bóng rợp cả một vùng, tên gọi là gì không rõ. Gốc cây người đi quanh phải một năm. Cành cây chim chuyền phải một tháng. Tán cây chim bay hết một hơi. Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, cây cao không cao, thấp không thấp, đủ chọc đến trời. Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, đó là cây Tông Lông vốn có tự xưa. Thân do trời trồng, gốc do trời vun, tự nó vực dậy, tự nó vươn lên. Đó là một cây cành lá xum xuê, một cây của vực thẳm khe sâu, gãy phía nào không rõ, ngã phía nào không hay. Cây thần đó ông ạ.”

     Đăm Săn: “Bớ các con, vậy thì ta hạ cây này nào. Ai gãy rìu, hay rèn ngay rìu. Ai gãy chà gạc, hãy rèn ngay chà gạc.”

     (Lược một đoạn: Hơ Nhị, Hơ Bhị sau nhiều ngày chờ đợi, quyết định vào rừng tìm Đăm Săn.)

     Đến lúc họ tới được nơi ở của Đăm Săn thì họ thấy cây bị chặt đã rung lên.

     Hơ Nhị: “Ơ nuê, ơ nuê! Sao nuê lại làm như vậy? Đó là cây xờ-múc ở phía đông nhà, là cây pơ-lang ở phía tây hiên, những cây sinh ra bà xưa, ông cũ của chúng tôi đó. Nếu nuê cứ phăm phăm chặt như vậy, chúng tôi sẽ chết mất. Nuê sẽ ăn gan bò trong thau, ăn gan trâu trong mâm, uống rượu ché tuk, ché tang một mình một cần. Thôi nuê ở lại, chúng tôi về đây.”

     Hơ Nhị, Hơ Bhị đứng nhìn Đăm Săn. Chàng vẫn hăm hở chặt, trông chàng cứ như đang trong ngày hội giết lợn giết trâu, ăn đông uống vui mừng mùa khô năm mới vậy.

     Đăm Săn: “Bớ các con, bớ các con! Hãy dũi như lợn, hãy báng như dê, hãy tới tấp vung tay búa tay rìu như chớp giật trong đêm tối.”

     Tôi tớ: “Ối ông ơi, ối ông ơi! Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, cây như muốn gãy. Gốc trong suối, thân trong khe, cây đang lung lay muốn gãy rồi ông ạ.”

     Đăm Săn: “Cây lung lay muốn gãy nhưng gốc chưa đứt. Bớ tất cả làng ta, hãy cứ dũi như lợn, cứ báng như dê, hãy cứ tới tấp vung tay búa tay rìu như chớp giật trong đêm tối cho ta!”

     Dân làng chặt thì cầm đèn sáp. Đăm Săn chặt thì cầm đuốc. Bóng cây tối như đêm. Cây đang đu đưa nhè nhẹ, rồi lắc lư từ gốc đến ngọn. Nó muốn gãy. Hơ Nhị, Hơ Bhị thấy vậy bỏ chạy. Hai chị em sợ quýnh, muốn chạy ra xa, những rồi cứ quấn lấy cây mà chạy. Cây xà xuống đầu hai người.

     Đăm Săn: “Ơ Hơ Nhị, ơ Hơ Bhị, chạy tránh đi nhanh.”

     Hơ Nhị, Hơ Bhị chạy phía tây, cây ngã theo phía tây. Chạy phía đông, cây ngã theo phía đông. Hai chị em chạy vào vùng Mnông, cây ngả theo vào vùng Mnông. Chạy xuống vùng Bih, cây ngã theo xuống vùng Bih. Chạy ra vùng Adham, cây cũng ngả theo ra vùng Adham.

     Đăm Săn: “Ơ Hơ Nhị, ơ Hơ Bhị, chạy đường về làng.”

     Hơ Nhị, Hơ Bhị liền chạy theo đường về làng… Hai chị em về gần đến làng thì cây sà xuống quá đầu. Họ vào đến làng thì cây lao xuống. Họ vào tới cửa thì cây ầm ầm sụp đổ, tiếng dội đến trời xanh. Cây cối khắp nơi đều gãy theo. Rừng gần rừng xa đều tan tác. Các cây cổ thụ cũng gãy hết, cành toác ra như bị bão giật, thân gục xuống như bị lốc xô. Hai chị em bị vật lăn ra giữa nhà, bị quật ngửa ra gần cửa. Hơ Nhị thì nằm ở đây, váy tuột đằng váy, áo tuột đằng áo. Hơ Bhị vào đến nhà trong thì lăn ra chết ở cửa buồng. Còn Đăm Săn từ lúc ấy cũng chạy theo sau. Tóc xổ đằng tóc, khăn tuột mặc khăn, thấy váy nhặt váy, thấy áo nhặt áo đem về. Anh chàng chạy suốt, vừa chạy vừa khóc. Về đến nhà, thấy Hơ Nhị nằm chết giữa nhà, liền bế Hơ Nhị vào buồng. Vào đến buồng lại thấy Hơ Bhị nằm chết ở cửa buồng liền đỡ luôn Hơ Bhị lên đùi. Thế là một bên đùi anh chàng đỡ Hơ Bhị, còn một bên đùi thì anh chàng đỡ Hơ Nhị. Tôi trai tớ gái trong nhà có bao nhiêu người đều hớt hải chạy đến xem hai người chị em bị cây đánh khác nào hồn đã rơi mất trong suối, vía đã lạc mất trong rừng. Mọi người oà lên khóc.

     Tôi tớ: “Ối anh ơi, ối anh ơi! Hai chị chúng tôi chết hết cả rồi. Chúng tôi ở với ai bây giờ.”

     (Lược một đoạn: Đăm Săn khóc thương vợ thâu đêm suốt sáng. Rồi chàng căn dặn mọi người lo ma chay chu đáo, còn chàng sẽ lên trời để gặp ông Trời.)

     Ông Trời: “Cháu lên có việc gì đấy, cháu?”

     Đăm Săn đứng lặng thinh không nói không rằng. Ông Trời chìa thuốc mời, tức thì chàng tóm lấy đầu ông.

     Đăm Săn: “Tôi chém ông đây này, ông ơi!”

     Ông Trời: “Chuyện gì mà cháu muốn chém ông vậy cháu?”

     Đăm Săn: “Chuyện gì mà tôi muốn chém ông à? Chuyện tôi kêu tôi gọi, ông không thưa. Chuyện tôi khóc tôi than, ông không nghe. Chuyện rượu tôi đem cúng, lợn trâu tôi đem giết để làm lễ, mà cổng chốt ông không mở, cổng sắt ông vẫn đóng chặt. Ông ơi, ông hãy nhìn thằng Đăm Săn cháu ông đây này, nước mũi ròng đầy cả chén hoa, nước mắt rỏ ròng đầy cả bát sứ, lênh láng khắp chiếu chăn. Ối ông ơi, vợ cháu chết mất rồi. Người vợ nấu cơm đơm canh, người vợ dệt khố dệt áo cháu chết mất rồi! Chính ông là người đã treo ching với char, trộn dầu với sơn, xe duyên chắp mối vợ chồng cháu. Chính ông đã ép ngựa phải chịu cương, ép trâu phải chịu thừng, ép duyên trai với gái. Cháu không ưng không chịu thì ông hăm cháu phải hốt phân ngựa phân bò cho Hơ Nhị, Hơ Bhị. Ông bảo cháu chỉ có lấy Hơ Nhị, Hơ Bhị mới trở nên một tù trưởng giàu có, ching lắm char nhiều. Vậy giữa lúc ching cháu đang đổi, char cháu đang sắm, tôi trai tớ gái cháu đang có này, ai là người nấu cơm canh, ai là người dệt khố, dệt áo cho cháu đây, ông?”

     Ông Trời: “Ơ cháu! Vậy thì cháu hãy lấy ngải kpo, ngải kpun đem mài trong ba năm, đem tắm trong ba sáng cho Hơ Nhị, Hơ Bhị.”

     Đăm Săn: “Cháu còn làm như vậy để làm gì nữa hả ông? Đã chết rồi thì sao còn đứng dậy được? Đã rữa ra rồi thì sao còn sống lại được, sao mặt mày còn được như cũ, thân hình còn được như xưa. Biết chọn váy áo, xuyến vòng như các cô gái còn son nữa chứ?”

     Ông Trời: “Vậy thì cháu lấy củ nén cháu phun vào lỗ tai, cháu lấy gừng cháu phun vào lỗ mũi. Chạng vạng tối cháu ra làm phép ở ngoài sàn sân.”

     Thế là vì duyên vì số, Hơ Nhị, Hơ Bhị đã lúa mục cỏ nát, bị ma quỷ bắt đi, nay lại được ông Trời cho sống lại.

(Trích Sử thi Đăm Săn)

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.

Câu 2. Vì sao sau khi Đăm Săn đốn hạ cây thần, chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị lại chết?

Câu 3. Chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản và phân tích tác dụng của chi tiết kì ảo đó.

Câu 4. Tóm tắt văn bản trên bằng những sự kiện chính và nhận xét về cốt truyện của văn bản.

Câu 5. Hành động quyết đốn hạ cây thần và bắt vạ ông Trời của Đăm Săn cho thấy chàng là người như thế nào? Những hành động ấy thể hiện điều gì ở con người thời đó?

1
30 tháng 11 2024

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.

Phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên là kể chuyện. Văn bản thuật lại một phần trong sử thi Đăm Săn, kể về hành trình của Đăm Săn chặt cây thần, sự chết của Hơ Nhị và Hơ Bhị, cùng những sự kiện kỳ ảo liên quan đến hành động của Đăm Săn và ông Trời.

Câu 2: Vì sao sau khi Đăm Săn đốn hạ cây thần, chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị lại chết?

Sau khi Đăm Săn đốn hạ cây thần, chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị chết vì cây thần gãy và gây tai họa cho họ. Cây thần, khi bị chặt, đã ngã theo mọi hướng mà Hơ Nhị và Hơ Bhị chạy, khiến họ bị cây đè, dẫn đến cái chết. Cây thần là một biểu tượng quan trọng trong nền văn hóa của dân làng, và việc chặt hạ nó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là đối với những người có mối liên hệ với cây thần như Hơ Nhị và Hơ Bhị.

Câu 3: Chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản và phân tích tác dụng của chi tiết kì ảo đó.

Một chi tiết kỳ ảo trong văn bản là khi cây thần bị chặt và ngã theo hướng mà Hơ Nhị và Hơ Bhị chạy. Cây thần có khả năng tự thay đổi hướng theo sự di chuyển của họ, và sau đó, cây đổ khiến cả hai chị em bị chết. Đây là một chi tiết kỳ ảo vì cây thần có sức mạnh huyền bí, dường như có sự sống và sức ảnh hưởng đến con người, thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa thiên nhiên và con người trong thế giới quan của dân tộc mà sử thi này phản ánh. Tác dụng của chi tiết này là làm nổi bật tính thần thánh và quyền lực của cây thần, đồng thời tăng thêm sự bi kịch cho câu chuyện.

Câu 4: Tóm tắt văn bản trên bằng những sự kiện chính và nhận xét về cốt truyện của văn bản.

Tóm tắt: Đăm Săn và tôi tớ vào rừng để chặt cây thần. Cây này có ý nghĩa rất lớn đối với dân làng, được cho là gắn liền với tổ tiên và có quyền lực thần bí. Sau khi Đăm Săn quyết tâm chặt cây, cây rung lên mạnh mẽ và chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị phản đối. Họ chạy trốn nhưng bị cây đè chết. Đăm Săn đau buồn và quyết lên trời tìm ông Trời để tìm cách cứu vợ. Ông Trời đã chỉ cho chàng cách để Hơ Nhị và Hơ Bhị sống lại. Cốt truyện có yếu tố kỳ ảo, thể hiện sự đối đầu giữa con người và thế lực thần linh, cũng như mối quan hệ giữa các lực lượng thiên nhiên và con người trong quan niệm dân gian.

Nhận xét: Cốt truyện mang đậm yếu tố kỳ ảo, phản ánh tín ngưỡng và quan niệm của người xưa về sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Mặc dù có sự can thiệp của các thế lực thần linh, nhưng cốt truyện cũng đề cao ý chí và hành động quyết liệt của nhân vật Đăm Săn trong việc bảo vệ những người thân yêu.

Câu 5: Hành động quyết đốn hạ cây thần và bắt vạ ông Trời của Đăm Săn cho thấy chàng là người như thế nào? Những hành động ấy thể hiện điều gì ở con người thời đó?

Hành động quyết đốn hạ cây thần và bắt vạ ông Trời của Đăm Săn cho thấy chàng là người can đảm, quyết đoán, không sợ hãi trước quyền lực thần linh. Chàng thể hiện sự dũng cảm khi chặt cây thần dù biết rằng đó là một hành động có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, và sau khi cây thần gây tai họa, Đăm Săn không ngần ngại đối mặt với ông Trời để tìm cách cứu vợ. Điều này phản ánh tính mạnh mẽ, kiên quyết và khả năng đối phó với thử thách của con người thời đó. Các hành động của Đăm Săn cũng thể hiện niềm tin vào sự công bằng và quyền lực của con người, dù phải đối mặt với những lực lượng thần thánh và bất khả chiến bại. Những hành động này là đặc trưng của người anh hùng trong các sử thi, luôn đối đầu với khó khăn và chiến đấu để bảo vệ gia đình và cộng đồng.

24 tháng 11 2024

Ta có: m muối = mKL + mCl

⇒ 72,375 = 24,45 + 35,5nCl

⇒ nCl = 1,35 (mol)

BTNT Cl: nHCl = nCl (trong muối) = 1,35 (mol)

⇒ mHCl = 1,35.36,5 = 49,275 (g)

25 tháng 11 2024

bạn có thể tham khảo bài văn này.

Miền quê luôn là một đề tài được các nhà thơ, nhà văn khai thác vì sự gắn bó sâu sắc và thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người. "Miền Quê" của tác giả Đức Trung là một tác phẩm đặc sắc, khắc họa rõ nét hình ảnh làng quê yên bình, tươi đẹp, và gửi gắm những suy tư về cuộc sống, con người. Qua bài thơ, tác giả không chỉ tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện những tình cảm sâu sắc của mình với mảnh đất nơi mình sinh ra.

Bài thơ "Miền Quê" mở ra trước mắt người đọc một không gian tươi đẹp của làng quê Việt Nam. Từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hữu tình, với "ruộng đồng mênh mông", "cánh đồng lúa chín vàng", "dòng sông vắt ngang qua làng". Những hình ảnh quen thuộc ấy không chỉ gợi lên trong lòng người đọc cảm giác bình yên mà còn khơi dậy một niềm tự hào về mảnh đất quê hương.

Cảnh vật trong bài thơ không chỉ là cảnh sắc tự nhiên mà còn gắn liền với cuộc sống của con người. Cánh đồng lúa chín không chỉ là sự biểu hiện của một mùa vụ bội thu mà còn là biểu tượng của sự cần cù, vất vả của người nông dân. Dòng sông uốn quanh làng là một hình ảnh quen thuộc, gắn liền với ký ức tuổi thơ của bao người. Nó không chỉ mang đến nguồn nước tưới mát cho cây cối mà còn là nơi chứa đựng bao kỷ niệm gắn bó với mỗi con người trong làng quê.

Đặc biệt, trong bài thơ "Miền Quê", tác giả Đức Trung không chỉ miêu tả cuộc sống của người dân mà còn gửi gắm một tình yêu sâu sắc đối với nơi mình sinh ra. Đó là tình yêu không chỉ dành cho cảnh vật, mà còn là tình cảm với con người, với những giá trị văn hóa truyền thống được lưu giữ qua bao thế hệ.

Tình yêu quê hương là chủ đề xuyên suốt trong bài thơ "Miền Quê". Dù tác giả không trực tiếp nói ra nhưng qua những dòng thơ, ta vẫn cảm nhận được một tình cảm thiêng liêng và sâu sắc dành cho mảnh đất quê hương. Mỗi hình ảnh trong bài thơ, từ cây cối, dòng sông, đến những con người nông dân vất vả đều mang đậm dấu ấn của một mảnh đất đã nuôi dưỡng và hình thành nên con người. Quê hương là nơi mà tác giả luôn hướng về, là nguồn động lực để tác giả vươn lên trong cuộc sống.

Bài thơ cũng thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị văn hóa của quê hương. Quê hương không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là nơi lưu giữ những giá trị về tình yêu gia đình, sự đùm bọc, sẻ chia giữa con người với con người. Quê hương là nơi khởi đầu cho những ước mơ, là nguồn gốc của tất cả những gì đẹp đẽ trong cuộc sống.

Qua bài thơ "Miền Quê", chúng ta nhận thấy rằng mỗi người dù ở đâu, dù đi xa đến đâu thì đều không thể quên được những hình ảnh, những kỷ niệm gắn bó với quê hương. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về giá trị của thiên nhiên và con người quê hương, về những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân: chăm chỉ, kiên trì và luôn yêu thương mảnh đất của mình.

Qua bài thơ "Miền Quê", chúng ta nhận thấy rằng mỗi người dù ở đâu, dù đi xa đến đâu thì đều không thể quên được những hình ảnh, những kỷ niệm gắn bó với quê hương. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về giá trị của thiên nhiên và con người quê hương, về những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân: chăm chỉ, kiên trì và luôn yêu thương mảnh đất của mình.

"Miền Quê" của tác giả Đức Trung là một bài thơ giàu cảm xúc và ý nghĩa. Bằng ngòi bút sắc sảo, tác giả đã tái hiện một miền quê đẹp đẽ, yên bình và đầy tình yêu thương. Qua đó, bài thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn nhắc nhở chúng ta về tình cảm sâu sắc đối với quê hương. Bài thơ khẳng định rằng, dù ở đâu, quê hương luôn là nguồn cội, là nơi để ta quay về và tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn.

25 tháng 11 2024
Cách sử dụng kính hiển vi để quan sát tế bào:

Để quan sát tế bào dưới kính hiển vi, cần thực hiện theo các bước cơ bản sau:

  1. Chuẩn bị kính hiển vi:

    • Đảm bảo kính hiển vi sạch sẽ, các thấu kính không có bụi bẩn.
    • Kiểm tra nguồn sáng (đèn chiếu sáng) và các điều chỉnh về ánh sáng.
    • Đặt kính hiển vi trên một mặt phẳng ổn định.
  2. Lắp mẫu lên bàn kính:

    • Đặt tiêu bản (mẫu vật) lên bàn kính của kính hiển vi. Sử dụng kẹp tiêu bản để cố định mẫu.
  3. Chỉnh tiêu cự (focus):

    • Bắt đầu với độ phóng đại thấp nhất (thường là 4x hoặc 10x) để dễ dàng quan sát và xác định vị trí của tế bào.
    • Dùng điều chỉnh tiêu cự thô (coarse focus) để đưa tiêu bản vào khoảng nhìn thấy.
    • Sau đó, dùng điều chỉnh tiêu cự tinh (fine focus) để làm sắc nét hình ảnh.
  4. Chuyển sang độ phóng đại cao hơn:

    • Khi đã quan sát rõ hình ảnh ở độ phóng đại thấp, bạn có thể chuyển sang độ phóng đại cao hơn (40x, 100x) để quan sát chi tiết hơn về cấu trúc tế bào.
  5. Quan sát và ghi chép:

    • Quan sát các bộ phận của tế bào như màng tế bào, nhân, tế bào chất, lục lạp (nếu là tế bào thực vật) hoặc các cấu trúc khác.
    • Ghi chép hoặc vẽ lại những gì bạn quan sát được.
Các bước làm tiêu bản tạm thời để quan sát tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực:
  1. Chuẩn bị tiêu bản:

    • Lấy một mảnh mẫu vật cần quan sát (ví dụ như mẫu tế bào thực vật, mô động vật, vi khuẩn hoặc tảo).
    • Nếu quan sát tế bào nhân thực, bạn có thể dùng tế bào lá cây, tế bào niêm mạc miệng, v.v. Nếu là tế bào nhân sơ, có thể dùng mẫu vi khuẩn.
  2. Cắt và đặt mẫu lên kính:

    • Dùng một chiếc kim hoặc nhíp để cắt một mảnh nhỏ của mẫu và đặt nó lên kính hiển vi (kính slide).
  3. Thêm dung dịch nhuộm (nếu cần thiết):

    • Nếu cần, bạn có thể nhỏ một vài giọt dung dịch nhuộm (ví dụ như methylene blue, iodine hoặc safranin) lên mẫu để nhuộm cấu trúc tế bào, giúp chúng dễ dàng quan sát hơn dưới kính hiển vi.
    • Để dung dịch nhuộm lan đều trên mẫu.
  4. Đặt một tấm kính phủ lên mẫu:

    • Đặt một tấm kính phủ (cover slip) lên trên mẫu đã nhuộm, tránh tạo bọt khí giữa kính và mẫu. Dùng kim để nhẹ nhàng nhấn kính phủ xuống.
  5. Quan sát dưới kính hiển vi:

    • Đặt tiêu bản lên bàn kính của kính hiển vi và bắt đầu quan sát như đã hướng dẫn ở trên.
Lưu ý khi quan sát:
  • Đảm bảo kính hiển vi được sử dụng đúng cách để tránh hư hỏng hoặc làm xê dịch mẫu.
  • Khi làm tiêu bản tạm thời, nếu mẫu cần thời gian dài để quan sát, bạn có thể nhỏ thêm dung dịch bảo quản như nước hoặc dung dịch đệm để giữ mẫu lâu hơn.

Thông qua các bước trên, bạn có thể quan sát và nghiên cứu các tế bào nhân sơ và nhân thực một cách hiệu quả.

23 tháng 11 2024

1 B

2 C

3 B

4 A

5 B

23 tháng 11 2024

6 D

7 C

8 C

9 D

10 A