K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 5

Câu 1:
Trong truyện ngắn "Tàu đi Hoàng hôn" của Nguyễn Quang Thân, nhân vật người đàn ông trải qua một sự chuyển biến tâm trạng sâu sắc sau khi lắng nghe câu chuyện đầy bi kịch của người đàn bà mù. Ban đầu, có lẽ anh chỉ đơn thuần là một hành khách tình cờ, có thể khơi gợi lòng trắc ẩn nhất thời khi đối diện với một số phận bất hạnh. Tuy nhiên, khi câu chuyện về cuộc đời đầy gian truân, mất mát của người đàn bà dần được hé lộ, trong lòng người đàn ông đã nảy sinh những rung động mạnh mẽ. Anh không chỉ cảm thương cho nỗi đau khổ tột cùng của bà mà còn bắt đầu suy ngẫm về những giá trị sống, về sự vô thường của kiếp người. Có lẽ, trong khoảnh khắc tĩnh lặng trên chuyến tàu hoàng hôn ấy, câu chuyện của người đàn bà mù đã khơi dậy trong anh những ký ức, những trăn trở riêng. Sự đồng cảm sâu sắc đã dần thay thế cho thái độ ban đầu, nhường chỗ cho một nỗi buồn man mác, một sự thức tỉnh nhẹ nhàng về những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng lại vô cùng quý giá trong cuộc sống. Cuối cùng, có lẽ người đàn ông đã mang theo một bài học sâu sắc về tình người và sự sẻ chia, một dấu lặng cần thiết giữa dòng chảy hối hả của cuộc đời.
Câu 2:
Trong hành trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người, gia đình đóng vai trò là nền tảng vững chắc đầu tiên. Nơi ấy không chỉ nuôi dưỡng về mặt vật chất mà còn là môi trường giáo dục đạo đức, lối sống quan trọng nhất. Và một trong những phương pháp giáo dục có sức mạnh lan tỏa và thấm sâu nhất chính là giáo dục nêu gương. Từ góc nhìn của một người trẻ, tôi nhận thấy rằng sự nêu gương của những người thân yêu trong gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn, định hình nên những giá trị cốt lõi và hành vi ứng xử của mỗi chúng ta.

Trước hết, giáo dục nêu gương trong gia đình bắt đầu từ những điều giản dị nhất trong cuộc sống hàng ngày. Cha mẹ, ông bà chính là những hình mẫu đầu tiên mà con cái tiếp xúc và học hỏi. Cách họ đối nhân xử thế, cách họ giải quyết vấn đề, thái độ của họ đối với công việc và những người xung quanh đều được con trẻ quan sát và ghi nhớ một cách tự nhiên. Một người cha trung thực, luôn giữ lời hứa sẽ dạy cho con cái về sự đáng tin cậy. Một người mẹ hiền dịu, nhẫn nại sẽ truyền cho con cái sự yêu thương và lòng bao dung. Những hành động nhỏ như giúp đỡ người khác, tôn trọng người lớn tuổi, giữ gìn vệ sinh chung tưởng chừng đơn giản nhưng lại có sức mạnh giáo dục vô cùng lớn lao, gieo mầm những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn trẻ thơ.

Thứ hai, sự nêu gương trong gia đình không chỉ dừng lại ở hành động mà còn thể hiện qua lời nói và thái độ. Cách cha mẹ giao tiếp với nhau, với con cái, với những người khác sẽ định hình nên cách con cái sử dụng ngôn ngữ và thể hiện cảm xúc. Một gia đình hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau sẽ tạo ra một môi trường giao tiếp tích cực, giúp con cái học được cách lắng nghe, thấu hiểu và bày tỏ ý kiến một cách lịch sự. Ngược lại, một môi trường gia đình căng thẳng, thiếu tôn trọng sẽ dễ khiến con cái hình thành những thói quen giao tiếp tiêu cực, thậm chí là bạo lực ngôn ngữ.

Hơn nữa, giáo dục nêu gương còn thể hiện qua lối sống của các thành viên trong gia đình. Những thói quen đọc sách, rèn luyện thể dục thể thao, tinh thần ham học hỏi, sự đam mê với công việc của cha mẹ sẽ truyền cảm hứng và động lực cho con cái. Khi con cái nhìn thấy cha mẹ không ngừng nỗ lực, cố gắng hoàn thiện bản thân, chúng cũng sẽ hình thành ý thức tự giác và khát vọng vươn lên trong cuộc sống. Ngược lại, một lối sống buông thả, thiếu kỷ luật của cha mẹ có thể dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con cái.

Tuy nhiên, giáo dục nêu gương không có nghĩa là cha mẹ phải trở thành những người hoàn hảo không tì vết. Điều quan trọng là sự chân thành, nhất quán giữa lời nói và hành động. Khi cha mẹ mắc lỗi, việc dũng cảm nhận lỗi và sửa chữa cũng là một bài học quý giá cho con cái về sự trung thực và tinh thần trách nhiệm. Sự gương mẫu cần xuất phát từ trái tim, từ tình yêu thương và trách nhiệm của bậc cha mẹ đối với sự trưởng thành của con cái.

Tóm lại, giáo dục nêu gương trong gia đình có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và định hướng lối sống cho thế hệ trẻ. Những hành động, lời nói, thái độ và lối sống tích cực của cha mẹ, ông bà chính là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền tảng đạo đức vững chắc cho con cái. Mỗi bậc phụ huynh cần ý thức sâu sắc về vai trò gương mẫu của mình, không ngừng hoàn thiện bản thân để trở thành những người dẫn đường đáng tin cậy cho con cái trên hành trình trưởng thành. Bởi lẽ, những bài học từ sự nêu gương trong gia đình sẽ theo mỗi người suốt cuộc đời, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động và quyết định

Đề thi đánh giá năng lực

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:PHẠM TỬ HƯ LÊN CHƠI THIÊN TÀO Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt. Khi Dương Trạm chết, các học trò đều...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

PHẠM TỬ HƯ LÊN CHƠI THIÊN TÀO

Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt.

Khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về. Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ, đời Trần, sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ Tây.

Một buổi sáng, ở nhà trọ đi ra, trong áng sương mù thấy có một đám những tán vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ dòm trộm xem thì người ngồi trong xe, chính thầy học mình là Dương Trạm. Chàng toan đến gần sụp lạy nhưng Trạm xua tay nói:

– Giữa đường không phải chỗ nói chuyện, tối mai nên đến đền Trấn Vũ cửa Bắc, thầy trò ta sẽ hàn huyên một hôm.

Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn mà đến. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lắm, chàng nhân hỏi rằng:

– Thầy mới từ trần chưa bao lâu, thoắt đã trở nên hiển hách khác hẳn ngày trước, xin thầy cho biết rõ duyên do để con được vui mừng.

Dương Trạm nói:

– Ta thuở sống không có một điều thiện nào đáng khen, chỉ có hay giữ điều tín thực đối với thầy bạn, quý trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế quân đây ngài khen là có bụng tốt tâu xin cho làm chức trực lại ở cửa Tử đồng(1). Hôm qua ta hầu lính giá ngài lên chầu Thiên cung, tình cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là vì thầy trò mình có cái mối duyên.

Tử Hư nói:

– Thầy được lĩnh chức trọng quyền cao như vậy, chẳng hay sự sống chết thọ yểu của con, thầy có được rõ không?

– Việc đó không phải thuộc về chức vụ của ta.

– Vậy thế thầy giữ về việc gì?

– Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh cao thấp của những học trò trong thiên hạ.

Tử Hư mừng mà rằng:

– Nếu thế thì tiền trình của con cùng đạt thế nào chắc thầy biết rõ?

– Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời này không ai bì kịp, huống anh lại còn có tính trung hậu thành thực; có điều lúc thiếu thời thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời mới bắt đỗ muộn để phải chùn nhụt cái nết ngông ngáo đi. Nếu không thì cướp thẻ trước của Mông Chính(2), lặt cỏ rác của Hạ Hầu(3) phỏng anh còn khó khăn gì nữa. Cho nên xưa nay người ta bàn về kẻ sĩ, tất trước hết xét đến đức hạnh là vì thế….

[Lược một đoạn: Tử Hư hỏi thầy về sự việc của một số người đương làm quan trong triều, đều được thầy giải đáp cho hết. Sau lại được thầy đồng ý cho theo cùng lên thiên tào thăm thú.]

Dương Trạm bèn dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các tòa. Trước hết đến một tòa có cái biển đề ngoài là “Cửa tích đức” trong có chừng hơn nghìn người mũ hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng, Tử Hư hỏi thì Dương Trạm nói:

– Đó là những vị tiên thuở sống có lòng yêu thương mọi người, tuy không phải dốc hết tiền của để làm việc bố thí, nhưng biết tùy thời mà chu cấp, đã không keo bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng đế khen là có nhân, liệt vào thanh phẩm nên họ được ở đây.

Lại đi qua một tòa sở có cái biển đề ở ngoài là “Cửa Thuận hạnh”, trong đó độ hơn nghìn người, áo mây lọng mưa, kẻ hát người múa. Tử Hư lại hỏi, Dương Trạm nói:

– Đó là những vị tiên thuở sống hiếu thuận, hoặc trong lưu ly biết bao bọc lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung không nỡ chia rẽ. Thượng đế khen là có lòng, cho vào cung mây nên họ được ở đây.

Lại đến một tòa sở có cái biển đề là “Cửa Nho thần” người ở đấy đều áo dài đai rộng, cũng có tới số một nghìn, trong có hai người mặc áo lụa, đội mũ sa.

Dương Trạm trỏ bảo Tử Hư rằng:

– Ấy là ông Tô Hiến Thành(4) triều Lý và ông Chu Văn An(5) triều Trần đó. Ngoài ra thì là những danh thần đời Hán, đời Đường, không sung vào quan vị hay chức chưởng gì cả, chỉ ngày sóc ngày vọng thì vào tham yết Đế quân, như những viên tản quan đời nay thỉnh thoảng vào chầu vua mà thôi. Cứ cách năm trăm năm lại cho giáng sinh, cao thì làm đến khanh tướng, thấp cũng làm được sĩ phu, hiệu doãn. Ngoài ra còn đến hơn trăm tòa sở nữa, nhưng trời gần sáng không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần. Xuống đến cửa Bắc, thấy trăm quan đã lục tục vào triều chầu vua.

Tử Hư từ biệt thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết.

(Nguyễn Dữ, Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, in trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch), NXB Văn học, Hà Nội, 1999, tr.319 – 325)

* Chú thích:

(1)Tử đồng: Nơi ở của Đế Quân Văn Xương, trông coi về văn học.

(2)Mông Chính: Người đời Tống, thi đỗ trạng nguyên. Khi nghe tin Mông Chính đỗ, Hồ Đán Phủ phàn nàn rằng: “Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ rồi.”. Quả nhiên, sang năm Hồ đỗ thật.

(3)Hạ Hầu: Hạ Hầu Thắng là một danh Nho đời Hán. Ông thường nói: “Kẻ sĩ chỉ sợ không sáng nghĩa kinh, nếu sáng thì lấy áo xanh, áo tía dễ dàng như lặt cỏ rác ở dưới đất vậy.”.

(4)Tô Hiến Thành: Làm quan dưới triều Lý Anh Tông và Lý Cao Tông, được sư khen là cao minh chính trực.

(5)Chu Văn An: Người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thời Trần, ông được giao chức Tư nghiệp Quốc tử giám, là một vị thầy học trung tín cương trực, không sợ quyền thế, không ham tước vị; từng dâng sớ xin chém bảy kẻ lộng thần, được triều đình và kẻ sĩ đương thời nể trọng.

Câu 1. Chỉ ra một chi tiết thể hiện rõ yếu tố kì ảo trong văn bản trên.

Câu 2. Theo lời của Dương Trạm, tại sao ông lại được giữ chức trực lại ở cửa Tử đồng?

Câu 3. Nhận xét về tính cách nhân vật Tử Hư trong văn bản.

Câu 4. Dựa vào việc tìm hiểu các cước chú trong văn bản, hãy nhận xét về tác dụng của việc dùng các điển cố trong tác phẩm.

Câu 5. Từ câu chuyện về những điều Phạm Tử Hư được chứng kiến trong chuyến đi thăm thiên tào, anh/ chị rút ra bài học nào có ý nghĩa về lẽ sống cho bản thân?

0
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:TÀU ĐI HÒN GAI Tàu của những người nghèo. Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp(1) lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long. Ngồi đối diện với tôi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

TÀU ĐI HÒN GAI

Tàu của những người nghèo.

Những tâm trạng và nỗi buồn không có cách gột bỏ nào rẻ tiền và dễ dàng hơn là rải nó dọc một tuyến đường biển dài, khi tiếng xế địp(1) lục bục đẩy anh xê dịch chỉ 4 hải lý một giờ đi sâu mãi vào cái hư ảo của Hạ Long.

Ngồi đối diện với tôi là người đàn ông luống tuổi, tóc bạc một cách cục cằn. Những đường nhăn không quy luật khó đoán định kẻ lên bộ mặt xạm đen vì nắng gió. Ông bảo ra Trà Cổ “tìm thằng con bất hiếu”. Nó về xin ông chia gia tài để cấp vốn cho con vợ đi buôn hàng Trung Quốc. Ông từ chối. Nó đào trộm nền nhà, cuỗm sạch của ông số vàng dưỡng lão. “Năm cây vàng của tôi chứ có ít ỏi gì.” – Ông nói.

Bên cạnh tôi là một bà mù, đi với đứa con út đang ngủ gà ngủ gật. Bà còn trẻ, mắt mở to như mắt người sáng, nét mặt không một nếp nhăn và bình thản. Không thể tưởng tượng được đôi mắt ấy không còn nhận được ánh sáng, và mặt biển chiều rực rỡ trên vịnh Hạ Long đối với bà chỉ còn là đêm tối mênh mông. Bà chăm chú nghe chuyện của chúng tôi theo cung cách và điệu bộ của người mù, sự chăm chú của toàn bộ cơ thể. Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.”.

Câu nói như an ủi được phần nào người cha đau khổ, ông nghiêng người ra phía trước, lắng nghe. Người đàn bà mù kể:

– Hồi lên mười, mắt tôi còn sáng. Cạnh nhà tôi có một bà cụ mù. Bà góa chồng từ lúc còn trẻ nhưng ở vậy nuôi con. Rồi bị một cơn thiên đầu thống(2) thế là mù hẳn. Anh con trai cưới vợ. Cả xóm nghèo ai cũng có tiền mừng, mọi người tự đặt vào bàn tay bà cụ. Ở chỗ tôi những người sáng mắt cũng còn chật vật lắm mới kiếm được miếng ăn, huống gì bà. Cưới được nàng dâu tốt nết, chắc đời bà đỡ khổ. Nhưng có ai ngờ anh con! Sau ngày anh có vợ, người ta đã xì xầm về anh những chuyện tày trời. Thế rồi một hôm, sang nhà con bạn chơi, tôi thấy nó đang chúi mũi vào một lỗ thủng trên vách đất, nhìn sang gian nhà của bà cụ mù. Nó vẫy tay tôi lại. Các chư ông có biết tôi nhìn thấy chuyện gì không? Cả nhà bà cụ đang ngồi bên mâm cơm.

Trên mâm có một đĩa rau luộc, một đĩa thịt kho vàng. Bà cụ ngồi nhai cơm. Anh con trai đang bặm môi dùng hai chiếc đũa đẩy đĩa thịt về phía vợ. Còn chị con dâu, mặt đỏ bừng vì xấu hổ, chống lại chồng bằng cách lấy đũa đẩy cái đĩa sang phía mẹ chồng. Cả hai giằng co nhau trên cái mâm, trong im lặng. Chỉ còn nghe tiếng nhai trệu trạo của bà mẹ. Lúc đó tôi nghĩ bà không biết gì. Trước mắt bà chỉ là đêm tối, như trước mắt tôi bây giờ cũng chỉ là đêm tối… Cầu trời cho các chư ông đừng bao giờ phải nhìn thấy cái cảnh tôi nhìn thấy đó. Hai năm sau, bà mẹ treo cổ tự vẫn ngay trong nhà, chị con dâu đẻ được một đứa con trai thì ôm con về nhà mẹ. Nhưng anh con trai lại làm ăn tấn tới, mua được nhà khác và dọn đi. Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Người đàn ông nức to lên một tiếng. Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều. Tôi nghĩ là câu chuyện đau buồn kia đã chạm đến vết thương lòng của ông. Tôi đưa ông lọ dầu gió: “Bác khó ở?...”. Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu. Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ. Tôi bỗng nghĩ đến cái chết của bà mẹ mù trong câu chuyện đang làm tôi run cả người lên. Đàn ông cũng chẳng cứng rắn gì hơn đàn bà. Trên đường ra vịnh đã có bao nhiêu cuộc đời tìm cách tự giải thoát vào làn nước xanh thẫm này. Tôi quả quyết đứng dậy, đi theo người đàn ông. Ông đã ngồi xuống đống dây chão trên lỗ neo. Tôi bước lại gần, cố nghĩ cách làm ông khuây khỏa: “Ngày mai mới có tàu ra Trà Cổ. Nhà tôi ở gần núi Bài Thơ, nếu tiện xin mời bác…”.

Người bạn đường nhìn tôi với đôi mắt biết ơn. Nhưng một khoảng trống mênh mông hiện ra trong mắt ông, trong cái nhìn mà tôi không thể nào mô tả nổi, một nỗi xót xa, ân hận hay thứ tình cảm gì gần như thế đang làm đôi đồng tử mắt ông to ra, như ông đang hấp hối. Linh tính mách bảo tôi một điều: người đàn ông này phải nói câu gì đó với tôi hay bất kỳ ai khác. Nếu không ông sẽ gục xuống. Tôi đã không nhầm. Ông nói:

– Cám ơn ông. Nhưng tôi không ra Trà Cổ làm gì nữa. Tôi thế là đáng đời. Ông biết không, tôi đã nhận ra bà mù ấy. Bốn mươi năm trước bà ta là cô bé hàng xóm của hai mẹ con tôi.

(Nguyễn Quang Thân, 100 truyện hay cực ngắn, Tạp chí Thế giới mới - NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1999)

* Chú thích:

(1)Xế địp: Tiếng động cơ tàu thủy.

(2)Thiên đầu thống: Một bệnh về mắt, dễ dẫn tới tổn hại dây thần kinh thị giác.

Câu 1. Chỉ ra các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong những câu văn sau: Bà nói: “Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.”.

Câu 2. Liệt kê những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù.

Câu 3. Phân tích tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Câu 4. Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!

Câu 5. Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/chị và lí giải tại sao.

1
12 tháng 5

Câu 1: Chỉ ra các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong những câu văn sau:

"Bà nói: 'Thưa các ông, mỗi cây mỗi hoa mới gọi là đời. Tôi xin kể các ông nghe một chuyện mắt thấy tai nghe từ thời tôi còn nhỏ… – Bà hướng về người đàn ông – Xin ông đừng buồn, thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông.'"

Các từ ngữ thể hiện sắc thái trang trọng trong câu này là:

  • "Thưa các ông": Đây là cách xưng hô trang trọng và lịch sự.
  • "Tôi xin kể các ông nghe": Cụm từ "xin kể" thể hiện sự khiêm nhường và tôn trọng người nghe.
  • "Xin ông đừng buồn": Lời an ủi thể hiện sự tôn trọng và cảm thông sâu sắc với người đàn ông.
  • "Thiên hạ còn có người bất hiếu hơn thằng con ông": Mặc dù nội dung có thể đau buồn, nhưng cách sử dụng "thiên hạ" cho thấy sự trang trọng, bao quát.

Câu 2: Liệt kê những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông ngay sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà mù.

Những chi tiết miêu tả phản ứng của người đàn ông sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà mù là:

  • "Người đàn ông nức to lên một tiếng": Đây là dấu hiệu thể hiện cảm xúc đau đớn và sự xúc động mạnh mẽ.
  • "Mặt ông tái xám đi trong nắng chiều": Mô tả cho thấy sự thay đổi lớn về mặt tâm lý của người đàn ông, sự đau khổ và suy nghĩ về câu chuyện.
  • "Ông xua tay rồi đứng dậy, bước tới phía mũi tàu": Cử chỉ này cho thấy ông muốn rời khỏi không gian đó, có thể là để trốn tránh cảm xúc hoặc không thể chịu đựng thêm.
  • "Đôi vai to bè oằn xuống trên tấm lưng mềm nhũn như không còn cột sống chống đỡ": Miêu tả này thể hiện rõ sự mệt mỏi và sự đè nén tâm lý, làm nổi bật sự yếu đuối, kiệt quệ của người đàn ông sau khi nghe câu chuyện.

Câu 3: Phân tích tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Trong văn bản này, tác giả lựa chọn ngôi kể "người kể xưng tôi" để đưa người đọc vào một câu chuyện theo góc nhìn của nhân vật người kể, đồng thời tạo ra sự gần gũi, chân thực. Cụ thể:

  • Ngôi kể thứ nhất giúp người đọc cảm nhận rõ hơn những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi” - người kể chuyện. Việc này khiến cho câu chuyện trở nên gần gũi và chân thực hơn, khi người đọc có thể đồng cảm trực tiếp với những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.
  • Tạo không gian tâm lý cho người đọc: Ngôi kể "tôi" giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận nỗi đau, sự xót xa của các nhân vật trong câu chuyện, đặc biệt là người đàn ông và người phụ nữ mù.
  • Khơi gợi sự đồng cảm: Bằng cách kể câu chuyện từ góc nhìn của "tôi", tác giả không chỉ cung cấp thông tin mà còn giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau của nhân vật qua lăng kính cảm xúc của người kể.

Câu 4: Giải thích nội dung câu nói của người đàn bà mù với người đàn ông: "Giờ đây, khi đã bị mù, tôi mới biết là mình đã nhầm. Người mù nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm!"

Câu nói của người đàn bà mù thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, mặc dù bà đã mất đi ánh sáng mắt, nhưng qua thời gian, bà nhận ra rằng sự mù lòa không chỉ là thiếu vắng ánh sáng vật lý, mà còn là sự mở rộng tầm nhìn về những điều ẩn sâu trong cuộc sống. Câu nói này mang hàm ý rằng:

  • "Nhìn thấy mọi thứ trong bóng đêm": Người mù, mặc dù không còn khả năng nhìn thấy bằng mắt, nhưng họ lại có thể cảm nhận và hiểu được những điều mà người sáng mắt đôi khi không nhận ra. Đây là sự giác ngộ về cuộc sống, về những sự thật khó nhìn thấy qua bề mặt, mà chỉ có thể cảm nhận qua trái tim và kinh nghiệm sống.
  • Sự "nhầm" của người đàn bà là bà đã hiểu sai lầm rằng mắt sáng mới là điều quan trọng để hiểu thế giới, nhưng bà nhận ra rằng trong bóng tối, con người có thể hiểu và cảm nhận những điều sâu sắc mà không thể thấy bằng mắt thường.

Câu 5: Xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/chị và lý giải tại sao.

Thông điệp có ý nghĩa nhất đối với tôi là: "Cuộc sống có nhiều khía cạnh không thể nhìn thấy bằng mắt, và đôi khi những điều quan trọng nhất lại nằm trong bóng tối."

Lý giải: Câu chuyện của người đàn bà mù và người đàn ông bất hiếu cho thấy rằng trong cuộc sống, đôi khi những gì chúng ta nhìn thấy bên ngoài chưa hẳn phản ánh đúng bản chất, mà phải thông qua cảm nhận, sự thấu hiểu và trải nghiệm sâu sắc để nhận ra giá trị thật sự. Thông điệp này nhắc nhở tôi về việc không chỉ đánh giá sự việc qua vẻ bề ngoài mà còn cần phải lắng nghe và cảm nhận những điều chưa thể nhìn thấy bằng mắt thường.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ(Trích) Trong số rất nhiều thách thức đa dạng và thú vị mà ngày nay chúng ta phải đối diện, điều cấp bách và quan trọng nhất là làm sao phải hiểu và định hình cuộc cách mạng công nghệ mới, điều chắc chắn sẽ thay đổi toàn diện bộ mặt của nhân loại. Chúng ta đang ở...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

(Trích)

Trong số rất nhiều thách thức đa dạng và thú vị mà ngày nay chúng ta phải đối diện, điều cấp bách và quan trọng nhất là làm sao phải hiểu và định hình cuộc cách mạng công nghệ mới, điều chắc chắn sẽ thay đổi toàn diện bộ mặt của nhân loại. Chúng ta đang ở thời điểm khởi đầu của một cuộc cách mạng sẽ thay đổi sâu sắc cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Xét về quy mô, tầm vóc và độ phức tạp, hiện tượng mà tôi coi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này không giống bất kỳ điều gì mà nhân loại từng trải qua.

Đến nay chúng ta vẫn chưa hình dung được đầy đủ tốc độ và phạm vi của cuộc cách mạng mới này. Hãy nghĩ đến vô số khả năng cho phép hàng tỷ con người kết nối với nhau bằng thiết bị di động, tạo nên sức mạnh xử lý, năng lực lưu trữ và cơ hội tiếp cận tri thức chưa từng có. Hoặc đến sự hợp lưu đáng kinh ngạc như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ robot, internet kết nối vạn vật, xe tự hành, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử, và còn nhiều nữa,… Nhiều sáng kiến vẫn còn sơ khai, nhưng chúng đã đến bước ngoặt trong quá trình phát triển nhờ dựa vào nhau và khuếch đại lẫn nhau trong một sự giao thoa công nghệ trên cả thế giới vật chất, thế giới số, lẫn thế giới sinh học.

(Theo Klaus Schwab, dịch giả Đồng Bích Ngọc, Nguyễn Thị Mỹ Anh, NXB Thế giới, 2018, tr.11)

Câu 1. Xác định thông tin chính của văn bản.

Câu 2. Văn bản trên sử dụng dữ liệu sơ cấp hay thứ cấp?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu văn in đậm.

Câu 4. Nhận xét về thái độ, quan điểm của người viết văn bản.

Câu 5. Văn bản trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ? (Trình bày nhiều nhất từ 5 đến 7 dòng).

0
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: HƯƠNG MÙA THU, PHỐ BIỂN…Tôi có gì thêm khi đến Hải PhòngThành phố của bộn bề cần cẩu thépCủa những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,Hàng cây số dài, búa máy râm ran,Lại cả của mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển,Con hải âu lượn chao như niềm vui...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

HƯƠNG MÙA THU, PHỐ BIỂN…

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng
Thành phố của bộn bề cần cẩu thép
Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,
Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,
Hàng cây số dài, búa máy râm ran,
Lại cả của mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển,
Con hải âu lượn chao như niềm vui hiển hiện,
Một bờ cát nguyên ròng ánh một vết chân in.
Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên
Hơi thở trong tôi như dồn nén lại
Hơi thở sâu đằm, hơi thở ngày bé dại,
Trong cảm giác yêu đời như bỏng cháy trên da.
Tôi thức giấc lần đầu từ tiếng vọng khơi xa
Con tàu mới xuống đà(1) như tiệc cưới
Màu sơn thắm lao xao triền nước nổi
Sóng cồn lên mùi hăng lạ – hương dầu.
Hải Phòng buộc tôi thức giấc lần đầu
Để từ đó không sao còn ngủ được
Biển mê mải mùa thu đầy ắp nước
Suốt đêm ngày vỗ sóng lớn không thôi!
Và vị mặn cần lao bỗng xộc đến trong tôi
Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt,
Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt,
Của hơi người đi, hối hả nối nhau...
[...]

Hải Phòng, 1974

(Trích Bằng Việt – Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, 2010, tr.120 – 121)

* Chú thích:

Đà: Là thiết bị dùng để hạ thuỷ tàu mới. Sau khi hoàn thành việc đóng tàu trên cạn, tàu sẽ được di chuyển từ trên đà để trượt xuống nước một cách an toàn.

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của đoạn trích.

Câu 2. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên nào để miêu tả mùa thu phố biển?

Câu 3. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong những dòng thơ sau:

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng
Thành phố của bộn bề cần cẩu thép
Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc,
Của màu khói xi măng, những ánh chớp lửa hàn,
Hàng cây số dài, búa máy râm ran,

Câu 4. Anh chị hiểu như thế nào về vị mặn cần lao trong khổ thơ:

Và vị mặn cần lao bỗng xộc đến trong tôi
Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt,
Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt,
Của hơi người đi, hối hả nối nhau...

Câu 5. Từ ý thơ Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên, anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của những khoảng lặng yên giữa sự náo nhiệt lạ lùng của đô thị. (Trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

1
24 tháng 5

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của đoạn trích.

  • Dấu hiệu hình thức: Đoạn trích được trình bày theo dạng các dòng thơ tự do, không bị ràng buộc bởi số tiếng (âm tiết) cố định trong mỗi dòng, không vần theo quy tắc nhất định (có thể có vần nhưng không cố định theo cặp hay khổ), và số câu trong mỗi khổ cũng không đồng đều.
  • Xác định thể thơ: Dựa vào những dấu hiệu trên, đoạn trích được viết theo thể thơ tự do.

Câu 2. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên nào để miêu tả mùa thu phố biển?

Trong khổ thơ đầu, tác giả đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên sau để miêu tả mùa thu phố biển:

  • "mùa thu, ngăn ngắt xanh sương biển"
  • "Hải âu lượn chao như niềm vui hiển hiện"

Câu 3. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong những dòng thơ sau:

Tôi có gì thêm khi đến Hải Phòng Thành phố của bộn bề cần cẩu thép Của những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc, Của màu khói xì măng, những ánh chớp lửa hàn, Hàng cây số dài, búa máy rầm ran,

  • Biện pháp tu từ: Liệt kê.
  • Hiệu quả:
    • Nhấn mạnh sự sầm uất, công nghiệp của Hải Phòng: Biện pháp liệt kê một loạt các chi tiết cụ thể như "bộn bề cần cẩu thép", "những trục, những đà, những xà ngang, tời dọc", "màu khói xì măng", "ánh chớp lửa hàn", "hàng cây số dài", "búa máy rầm ran" đã khắc họa rõ nét hình ảnh một thành phố cảng công nghiệp sôi động, mạnh mẽ.
    • Tạo ấn tượng về sự phong phú, đa dạng: Cho thấy Hải Phòng không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là trung tâm của lao động, sản xuất, với những âm thanh, màu sắc rất riêng biệt của công nghiệp.
    • Gợi cảm giác choáng ngợp, choáng ngợp: Sự xuất hiện liên tiếp của các hình ảnh chi tiết, sống động làm người đọc hình dung được sự đồ sộ, nhộn nhịp, và quy mô lớn của hoạt động sản xuất, xây dựng tại thành phố này.

Câu 4. Anh chị hiểu như thế nào về vị mặn cấn lao trong khổ thơ:

Và vị mặn cấn lao bỗng xộc đến trong tôi Vị mặn của mồ hôi, bến tàu, gỉ sắt, Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt, Của hơi người đi, hối hả nói nhau…

"Vị mặn cấn lao" ở đây không chỉ là vị mặn thông thường của biển cả mà là một "vị" tổng hợp, đặc trưng của lao động và cuộc sống tại một thành phố cảng công nghiệp.

  • "Vị mặn của mồ hôi": Gợi lên sự vất vả, cần cù, nỗ lực của những người lao động nơi đây. Đó là giọt mồ hôi đổ ra trên các công trường, bến cảng.
  • "Vị mặn của bến tàu, gỉ sắt": Là mùi vị đặc trưng của cảng biển, của những con tàu, những thiết bị làm việc ngoài trời bị ảnh hưởng bởi hơi nước biển, hơi mặn của gió biển và sự bào mòn của thời gian. Đó là mùi của kim loại, của dầu mỡ, của sự han gỉ.
  • "Của bụi trắng trên đầu, của gió se trên mặt": "Bụi trắng" có thể là bụi xi măng, bụi công nghiệp, càng khắc họa rõ nét môi trường làm việc đặc thù. "Gió se trên mặt" gợi cảm giác về gió biển, vừa mang hơi lạnh vừa mang theo mùi vị của biển cả và những yếu tố công nghiệp.
  • "Của hơi người đi, hối hả nói nhau…": Hình ảnh này nhấn mạnh sự tấp nập, vội vã, năng động của con người Hải Phòng trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Đó là hơi thở của cuộc sống lao động hối hả, nhộn nhịp.

Tóm lại, "vị mặn cấn lao" là sự tổng hòa của các giác quan: vị (mặn), khứu giác (mồ hôi, gỉ sắt), xúc giác (bụi, gió), và thính giác (hơi người, nói hối hả). Nó không chỉ đơn thuần là vị mặn của biển mà là vị mặn của cuộc sống lao động, của sự vất vả, của nỗ lực và sự sống động đặc trưng của một thành phố công nghiệp cảng biển như Hải Phòng. Đây là một vị mặn rất chân thực, rất "đời" và rất đặc trưng của vùng đất này, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của tác giả về Hải Phòng.

Câu 5. Từ tứ thơ "Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên, anh/chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của những khoảng lặng yên giữa sự náo nhiệt lạ lùng của đô thị? (Trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

Tứ thơ "Giữa náo nhiệt lạ lùng, tôi bỗng muốn lặng yên" thể hiện một nhu cầu sâu sắc của con người hiện đại: tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn giữa bộn bề cuộc sống đô thị. Trong sự hối hả, ồn ào của thành phố, nơi mọi thứ dường như không ngừng chuyển động và đòi hỏi sự thích ứng liên tục, những khoảng lặng yên trở thành "ốc đảo" cần thiết. Đó là khoảnh khắc để con người được tách mình ra khỏi dòng chảy vội vã, lắng nghe bản thân, chiêm nghiệm và tái tạo năng lượng. Những giây phút tĩnh lặng này giúp ta không bị cuốn trôi bởi guồng quay vật chất, mà có thể tìm thấy sự cân bằng, nhận ra giá trị thực sự của cuộc sống, và từ đó, có thể trở lại với sự náo nhiệt một cách tỉnh táo và hiệu quả hơn. Khoảng lặng yên không phải là sự chối bỏ đô thị, mà là một cách để sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn trong lòng nó.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát.

    Chẳng thà bạn phạm sai lầm, chẳng thà bạn phải dò dẫm tìm một lối đi mới và hữu ích còn hơn là cứ phân vân, lo sợ thất bại để rồi chùn bước. Khi dám nghĩ dám làm, sức mạnh tiềm ẩn vốn có trong mỗi chúng ta sẽ trỗi dậy để hỗ trợ và tiếp sức, đưa ta tiến lên phía trước.

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ. Bạn sẽ không phải mất thời gian mò tìm lối thoát từ những ngổn ngang của các hy vọng vỡ vụn và ước mơ héo úa. Hãy cố gắng làm công việc của bạn tốt hơn người tiền nhiệm; đừng để cho cái bóng của người phía trên che khuất bạn. Để đạt được tất cả những điều đó thì trước hết bạn phải dám nghĩ – dám làm.

(Trích You can – Không gì là không thể, George Matthew Adams, dịch giả Thu Hằng, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.132 – 133)

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?  

Câu 2. Theo văn bản, khi dám nghĩ dám làm thì điều gì sẽ đến với mỗi chúng ta?

Câu 3.  Hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các câu văn sau có ý nghĩa gì?

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ.

Câu 4. Việc sử dụng bằng chứng trong câu văn Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát. có tác dụng gì trong văn bản?

Câu 5. Từ nội dung đề cập trong văn bản, hãy cho biết bài học về lẽ sống mà anh/chị tâm đắc nhất là gì? (Trả lời nhiều nhất từ 5 đến 7 dòng)

2
23 tháng 5
2. Bài văn nghị luận: Câu 1: Đoạn văn nghị luận về "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" (khoảng 200 chữ) Trong cuộc sống, sự an toàn và ổn định là điều mà ai cũng mong muốn. Tuy nhiên, nếu chỉ mãi quẩn quanh trong vùng an toàn, chúng ta sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để phát triển và khám phá bản thân. "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" - đó là một lời khuyên quý giá, đặc biệt đối với những người trẻ. Dấn thân vào những điều mới mẻ không chỉ giúp chúng ta mở rộng kiến thức, tích lũy kinh nghiệm mà còn rèn luyện bản lĩnh, sự tự tin và khả năng thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. Đôi khi, chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại, nhưng đó lại là những bài học vô giá giúp chúng ta trưởng thành hơn. Tuổi trẻ là thời gian để thử thách, để trải nghiệm và để khám phá. Đừng ngần ngại bước ra khỏi vùng an toàn, hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ để viết nên câu chuyện cuộc đời mình thật ý nghĩa và đáng nhớ. Câu 2: Bài văn phân tích cảm xúc, suy tư của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ của Lê Huy Mậu (khoảng 600 chữ) Đoạn thơ trích từ "Thời gian khắc khoải" của Lê Huy Mậu đã vẽ nên một bức tranh quê hương vừa bình dị, thân thương, vừa thấm đượm những suy tư, trăn trở của nhân vật trữ tình về quá khứ và hiện tại. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, hình ảnh quê hương hiện lên với vẻ nghèo khó, đơn sơ: "quê hương ta nghèo lắm". Tuy nhiên, đằng sau cái nghèo ấy lại là một tấm lòng nhân hậu, sẻ chia: "ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn / ta mổ lợn con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt". Những hành động nhỏ bé ấy thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và những sinh vật bé nhỏ. Đặc biệt, câu thơ "cá dưới sông cũng có Tết như người trên bãi sông" đã nhân hóa loài vật, khẳng định sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên trong không gian làng quê. Tiếp theo, đoạn thơ khắc họa những sinh hoạt đời thường giản dị của người dân quê: "ta trồng cây cải tươi / ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật". Hình ảnh cây cải tươi xanh, bướm ong lượn lờ không chỉ gợi lên vẻ đẹp thanh bình của làng quê mà còn thể hiện sự trân trọng những gì mà thiên nhiên ban tặng. Câu thơ "lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm / trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh..." đã tái hiện lại một cách chân thực cảnh thu hoạch lúa và cuộc sống thanh nhàn của con trâu sau vụ mùa. Đoạn thơ khép lại bằng những dòng suy tư, hồi tưởng của nhân vật trữ tình về quá khứ: "Cùng một bến sông phía dưới trâu đằm / phía trên ta tắm... / trong ký ức ta sao ngày xưa yên ổn quá chừng / một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." Hình ảnh bến sông quen thuộc gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm, yên ả. Từ láy "yên ổn" gợi lên cảm giác bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Câu thơ cuối cùng "một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." là một ẩn dụ về dòng chảy thời gian, dòng chảy ký ức và cả dòng chảy văn hóa của quê hương. Với ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức gợi, Lê Huy Mậu đã tái hiện lại một cách sinh động bức tranh quê hương và những cảm xúc, suy tư sâu lắng của nhân vật trữ tình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Đoạn thơ không chỉ là một khúc hát về quê hương mà còn là lời nhắn nhủ về sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống và tình yêu thương đối với quê hương, xứ sở.
23 tháng 5

Các bước thực hiện động tác vươn thở

  1. Tư thế chuẩn bị:
    • Đứng thẳng, hai chân mở rộng bằng vai, hai tay buông xuôi tự nhiên theo thân người.
  2. Bước 1:
    • Hít sâu, đồng thời đưa hai tay lên cao qua đầu, lòng bàn tay hướng vào nhau hoặc hướng ra phía trước.
  3. Bước 2:
    • Vươn người lên cao hết mức, có thể kiễng chân lên (nếu yêu cầu), giữ tư thế trong 1-2 giây.
  4. Bước 3:
    • Thở ra, đồng thời hạ hai tay xuống, trở về tư thế ban đầu.
  5. Lặp lại động tác theo nhịp hướng dẫn (thường 2-4 lần).

Lưu ý khi thực hiện:

  • Khi đưa tay lên thì hít vào, khi hạ tay xuống thì thở ra.
  • Động tác thực hiện nhẹ nhàng, nhịp nhàng, không gắng sức.
  • Giữ lưng thẳng, mắt nhìn thẳng về phía trước.


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU Không có một loài chim nào tự đẩy con mình                               từ vách núi cao xuống biển Con yêu thương chỉ có mẹ Hải âu thôi đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm con đừng rúc vào ngực mẹ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ con...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU

Không có một loài chim nào tự đẩy con mình
                               từ vách núi cao xuống biển
Con yêu thương
chỉ có mẹ Hải âu thôi
đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm
con đừng rúc vào ngực mẹ
đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ
con phải lao xuống biển
có thể gặp vô vàn hiểm nguy
nhưng con phải sống
con sẽ sống
và con tự sống
đó là bản năng tự tin của lòng dũng cảm
là môi trường sống duy nhất của con
của loài Hải âu chúng ta
nơi đó sẽ có những ngư dân
có những người thủy thủ
bạn tốt của chúng ta
họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm
họ yêu quý con bằng tình yêu biển cả
nơi đó con có cả bầu trời tự do
thoả niềm đam mê, khao khát

Nào, con yêu thương của mẹ!
bắt đầu nhé
lao xuống
tung cánh ra
đập cánh
Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu

(Nguyễn Đình Tâm, viết & đọc, chuyên đề mùa hè 2024, NXB Hội Nhà văn, 2024, trang 233)

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2. Theo văn bản, mẹ Hải âu có hành động gì khác biệt so với các loài chim khác?

Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về lời của mẹ Hải âu qua các dòng thơ: “con đừng rúc vào ngực mẹ/ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ/ con phải lao xuống biển?”.

Câu 4. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong dòng thơ: “họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm”.

Câu 5. Ý thơ “Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu” gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì? (trả lời khoảng 5 – 7 dòng)

4
20 tháng 5

Cũng hay

20 tháng 5

trả lời chứ sao lại hay ?


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

(Nhớ, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, Tập 3, NXB Văn học, 1997, tr.67)

Câu 1. (0,5 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. (0,5 điểm) Chỉ ra những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản.

Câu 3. (1,0 điểm) Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai dòng thơ sau:

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.

Câu 4. (1,0 điểm) Anh/Chị cho biết ý nghĩa của hình ảnh “ngôi sao”, “ngọn lửa” trong văn bản.  

Câu 5. (1,0 điểm) Từ văn bản, anh/chị suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với đất nước (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

1

Câu 1. Thể thơ của văn bản trên là thể tự do.

Câu 2. Những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản: "hồng đêm lạnh""bập bùng đỏ rực".

Câu 3. Hai dòng thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “anh yêu em như anh yêu đất nước”. So sánh tình yêu đôi lứa với tình yêu đất nước làm nổi bật sự thiêng liêng, sâu sắc và thủy chung. Qua đó, nhà thơ thể hiện quan niệm cao đẹp: tình yêu cá nhân hòa quyện trong tình yêu lớn lao với Tổ quốc, làm cho tình cảm trở nên vừa lãng mạn vừa hào hùng.

Câu 4. Hình ảnh “ngôi sao” tượng trưng cho ánh sáng dẫn đường, hy vọng và lý tưởng sống. Hình ảnh “ngọn lửa” tượng trưng cho sự ấm áp, nhiệt huyết, sức sống bền bỉ trong hoàn cảnh gian khổ. Cả hai hình ảnh đều thể hiện tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của người chiến sĩ giữa chiến trường.

Câu 5. từ văn bản em nhận ra thế hệ trẻ hôm nay cần có trách nhiệm yêu nước và sống có lý tưởng. dù không phải cầm súng ra trận nhưng chúng em phải học tập tốt, rèn luyện bản thân, biết yêu thương con người và cống hiến cho cộng đồng. đó chính là cách thể hiện lòng biết ơn với những người đi trước và góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Đọc đoạn trích sau:CON THÚ LỚN NHẤTNguyễn Huy Thiệp Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại,...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

CON THÚ LỚN NHẤT

Nguyễn Huy Thiệp

Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.

Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.

Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt... Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ già của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.

Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?

Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú… Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái. Cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “đùng”! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.

Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con vượn. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây, gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.

Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão.

Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.

(Trích Những ngọn gió Hua Tát, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr. 258 – 262)

* Chú thích:

Cái lếp: giỏ đeo.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm): Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhoè máu.

Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.

Câu 5 (1,0 điểm): Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

0

emchaof cô