Một hộp chứa 22 tấm thẻ cùng loại được đánh số lần lượt từ 1 đến 22. Chọn ra ngẫu nhiên 1 thẻ từ hộp. Gọi A là biến cố “Số ghi trên thẻ được chọn chia hết cho 2”, B là biến cố “Số ghi trên thẻ được chọn chia hết cho 3”. Tính xác suất của biến cố AB
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
b: S.ABCD là hình chóp tứ giác đều
O là tâm của đáy ABCD
Do đó: SO\(\perp\)(ABCD)
\(\widehat{SA;\left(ABCD\right)}=\widehat{AS;AO}=\widehat{SAO}\)
ABCD là hình vuông
=>\(AC=\sqrt{AB^2+BC^2}=\sqrt{\left(a\sqrt{6}\right)^2+\left(a\sqrt{6}\right)^2}=2a\sqrt{3}\)
O là trung điểm của AC
=>\(AO=\dfrac{AC}{2}=a\sqrt{3}\)
Xét ΔSOA vuông tại O có \(tanSAO=\dfrac{SO}{OA}=\dfrac{2a}{a\sqrt{3}}=\dfrac{2}{\sqrt{3}}\)
nên \(\widehat{SAO}\simeq49^06'\)
=>\(\widehat{SA;\left(ABCD\right)}\simeq49^06'\)
c: Ta có: DA\(\perp\)AB
DA\(\perp\)AC
AB,AC cùng thuộc mp(ABC)
Do đó: DA\(\perp\)(ABC)
\(\widehat{DB;\left(ABC\right)}=\widehat{BD;BA}=\widehat{DBA}\)
Xét ΔDAB vuông tại A có \(tanDBA=\dfrac{DA}{AB}=\dfrac{2a}{2a}=1\)
nên \(\widehat{DBA}=45^0\)
=>\(\widehat{DB;\left(ABC\right)}=45^0\)
d: DA\(\perp\)AB
DA\(\perp\)AC
AB,AC cùng thuộc mp(ABC)
Do đó: DA\(\perp\)(ABC)
\(\widehat{DC;\left(ABC\right)}=\widehat{CD;CA}=\widehat{DCA}\)
ΔABC vuông tại A
=>\(AB^2+AC^2=BC^2\)
=>\(AC=\sqrt{\left(a\sqrt{5}\right)^2-\left(a\right)^2}=2a\)
Xét ΔDAC vuông tại A có \(tanDCA=\dfrac{DA}{AC}=\dfrac{1}{2}\)
nên \(\widehat{DCA}\simeq26^034'\)
=>\(\widehat{DC;\left(ABC\right)}\simeq26^034'\)
TK:
https://dembuon.vn/threads/phan-tich-bai-tho-giuc-gia-xuan-dieu.133076/
“Sinh ra trên đời là một việc hết sức đơn giản nhưng sống trên đời lại là một việc rất khó” (Đ.Rpixarit). Biết bao con người từng có mặt trên cõi đời này, họ dã và đang sống, mỗi người theo một cách riêng. Tuy nhiên, sống như thế nào thì đúng nhất? Đấy vẫn luôn là câu hỏi chờ được trả lời. Một trong những câu trả lời đã được nêu ra là hai câu thơ trong bài Giục giã Xuân Diệu viết trước Cách mạng tháng Tám.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Quan niệm sống đó có nghĩa là gì?
Đi vào tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ, chúng ta dễ dàng nhận ra ngay rằng, Xuân Diệu đã biểu trưng cho sự sống của Việt Nam bằng hình ảnh thông thường nhất nhưng cũng điển hình nhất: Đó là ánh sáng. Nhà thơ sử dụng cấu trúc câu nhượng bộ để đưa ra một sự đánh đổi: ông sẵn sàng đổi cả trăm năm sống nhạt nhẽo lấy duy nhất chỉ một giây phút thôi, nhưng trong giây phút ấy, con người ta được sống mãnh liệt, sống hết mình, tận hưởng và tận hiến cho đời.
Đem trăm năm đổi lấy một phút là cái giá cắt cổ, đặc biệt đối với những người nhạy cảm với thời gian, yêu quí thời gian như Xuân Diệu. Vậy mà ông đã chấp nhận cái giá cắt cổ ấy nhằm khẳng định một điều: Với cuộc sống, chất lượng cần hơn là số lượng. Chỉ có sống hết mình mới thực sự là sống. Còn sống mà vô vị nhàm chán thì cũng chỉ là một kiểu chết mà thôi.
Vì sao vậy? Trước hết bởi Xuân Diệu nhận ra ràng cuộc đời này đẹp vô cùng và rất đáng sống. Mọi sự kì diệu của cuộc sống đều tập trung vào mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Hãy thử nhìn xem mùa xuân bày ra trước mắt chúng ta đẹp tươi mơn mởn biết nhường nào.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
….
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cảnh sắc đất trời tươi trẻ, vị ngọt ngào, âm thanh quyến rũ của tình yêu cứ như mời, như gọi, ngồn ngộn tràn đầy. Nhưng than ôi! Đời người là hữu hạn, thời gian để chúng ta hưởng thụ cuộc sống không nhiều:
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
….
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.
Cho nên, con người phải sống gấp lên, phải biết tranh thủ từng khoảnh khắc sống hết mình, yêu hết mình và dâng hiến tình yêu của mình cho tất thảy. Nhìn người sống nhàm chán, chưa từng thấy cuộc đời là thú vị thì thử hỏi cuộc sống của họ là gì ngoài cái vô nghĩa, mà vô nghĩa còn là gì ngoài cái chết nửa đâu.
Vì thế, không phải bất cứ câu thơ nào cũng có thể trở thành quan niệm sống. Chỉ là quan niệm sống những câu thơ đúc kết ở đỉnh cao trạng thái tâm lý, tình nhận thức, suy nghĩ, khát khao của con người trước cuộc đời.
Nó trở thành một câu thơ triết lí ăn sâu vào máu thịt, quyết định sự phản ứng và cách cư xử của con người trong xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng ở một vài thời điểm bộc phát mà ảnh hưởng lên cả một chặng đời, có khi cả một đời người ta. Riêng đối với nhà văn, quan niệm sống còn chi phối hàng loạt các sáng tác, để lại dấu ấn rất đậm trong thơ văn của anh ta. Xuân Diệu không phải là ngoại lệ.
Trung thành với quan niệm đã đề ra, nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam ấy luôn luôn sống hết mình. Niềm ham sống trở thành một sức hấp dẫn đặc biệt của thơ ông.
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
Nhịp điệu đoạn thơ nhanh, gấp, dồn dập, thể hiện trạng thái cảm xúc cuống quýt, Vồ vập của Xuân Diệu với cuộc đời. Nhà thơ muốn tận hưởng sự sống ngay từ khi nó mới bắt đầu, đang ở độ non tơ mơn mớn. Ông mở lòng ra đón nhận mùa xuân, tình yêu, cảm nhận nó bằng tất cả sức mạnh mình có thể. Cho nên suốt cả đoạn thơ, không thể tìm ra một từ nào phẳng lặng, vừa vừa. Tất cả đều như mạnh lên, căng mình ra, quấn đầy sự sống và say sưa với nó.
Đối với Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Cho nên sống hết mình cũng có nghĩa là yêu hết mình. Chẳng thấy mà tình yêu của ông với tất cả mọi vật trên đời đều nồng nàn như tình yêu đôi lứa. Khao khát giao cảm với đời thực sự lên đến đỉnh điểm khi Xuân Diệu thốt lên.
Xuân Diệu yêu đời như thế, sống mãnh liệt như thế, bảo ông làm sao có thể chấp nhận được cuộc sống đơn điệu nhàm tẻ? Trái lại, ông còn phải phản ứng, phải phê phán nó.
Từ bài thơ Vội vàng và Giục giã đã toát lên một sự khẳng định và một sự phủ định. Đặt lên bàn cân nhận thức hai cuộc sống với hai giá trị có hình thức tương đương: một bên số lượng rất ít, chất lượng cực cao còn bên kia, số lượng rất cao, chất lượng thì cực ít, Xuân Diệu dã khẳng định cuộc sống có chất lượng và phủ định cuộc sống vô nghĩa. Ông đã chứng minh hùng hồn cho quan niệm sống của mình. Quan niệm ấy trở thành một luồng gió mới thổi vào văn học lãng mạn 30 – 45.
Luồng gió mới này thực chất nảy sinh từ câu thơ phần trên, bài viết chỉ đề cặp đến sợi dây lôgic ẩn giấu đằng sau – nguyên nhân sâu xa – bây giờ ta mới xem xét đến. Tại sao trong thời phong kiến chưa có ai để ra quan niệm sống này? Là bởi vì khi ấy, bản ngã của con người bị triệt tiêu. Và ở thời đại của Xuân Diệu, cái tôi cá nhân dễ được thức tỉnh, hiện diện một cách hoàn chỉnh, đường hoàng.
Con người ta nói nhiều đến bản thân, đến những cái mình nghĩ, mình muốn. Riêng trong bài Vội vàng, chữ “tôi” xuất hiện tám lần. Và “ta muốn” chính là tên con sư tử dũng mãnh một trong ba biến thể của tinh thần mà nhà triết gia vĩ đại Nietsche của phương Tây từng nói đến. Trách nhiệm quyền năng của con sư tử này là tự giải phóng của mình khỏi những áp đặt tồn tại ngang đời, trở nên thung dung cho những sáng tạo mới. Nhờ thế, Xuân Diệu ý thực được thời gian trôi qua đem lại quá nhiều mất mát cho cá nhân.
Ông ham sống. Khát vọng, tình cảm của ông khác hẳn khát vọng, tình cảm của con người thời trung đại. Nó không bị bó buộc trong một chừng mực nhất định nào mà được đẩy lên đến cao trào, đến mức tự đốt cháy để tỏa sáng.
Cũng là cái tôi nhưng Thế Lữ nhốt mình trong tháp ngà nghệ thuật, Hàn Mặc Tử say sưa ở cõi mộng, trường điên… Chỉ có Xuân Diệu thiết tha gắn bó với vườn lảy hương sắc. Cá tính và thời cuộc đã làm nên hoàn cảnh nảy sinh cho ham muốn sống hết mình của nhà thơ, đồng thời, cũng là một trong những cơ sở để đánh giá giá trị quan niệm ấy.
Trước tiên, phải khẳng định quan niệm sống của Xuân Diệu là chân lí muôn đời không ai có thể phủ nhận. Nó hướng tới con người, nhân đạo hóa con người khiến con người ta sống có ý nghĩa hơn, sống người hơn.
Trong xã hội Việt Nam thời kì 30-45 ngột ngạt bấy giờ, nó chỉ ra được ra giá trị đích thực của cuộc sống nơi trần thế. Nó mang đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư sản đang chìm trong lối sống buồn chán, ảm đạm và vô vị một cách sống mới sôi nổi, mạnh mẽ. Nó lay động và thắp sáng lên trong trái tim của họ niềm yêu đời, yêu sống mạnh mẽ thiết tha. Nó khơi dậy đời sống của những thế giới nội tâm phong phú và tinh tế.
Đối với chúng ta hôm nay và cả những thế hệ mai sau, quan niệm sống ấy vẫn sẽ không ngừng phát huy tác dụng. Quả là tinh thần, quan niệm của Xuân Diệu được thể hiện rất ấn tượng. Tuy nhiên, có người đặt ra câu hỏi là: Trả một cái giá cát cố như thế, Xuân Diệu có thể hiện cực đoan quá chăng?
Xét trên nghĩa đen của văn bản, đúng là ông có đưa ra một sự đối lập hơi quá mức. Theo quan niệm xưa, trăm năm là giới hạn lớn nhất cho vòng đời của con người. Cuộc sống của một người không nhất thiết phải đi hết một trăm năm ấy. Nhưng một phút? Quá ngắn ngủi để có thể coi là một đời người, chỉ có thể coi là một khoảnh khắc sống mà thôi. Nếu đời người như bóng cau qua cưa sổ thì một phút kia thực chẳng có nghĩa lí gì.
Song, ta không được quên rằng ngôn ngữ văn học là thứ ngôn ngữ kì diệu không hề đồng nhất với bất cứ thứ ngôn ngữ nào khác. Một trong những đặc điểm cùa nó là ít nhiều đều mang tính tượng trưng và chỉ đòi hỏi sự chính xác về bản chất.
Chẳng phải các nhà văn vẫn dùng cái vô lí để nói cái có lí, cái hiện tượng để nói cái bản chất, cái ngẫu nhiên để nói cái qui luật đó sao? Vậy thi hà cớ gì Xuân Diệu lại không thể dùng một cách diễn đạt, một hiện tượng quá mức để nói về một sự thật chẳng quá mức tí nào?
Tôi cho rằng nếu qua trên đời này có ai sống vô vị hệt như hai cô gái trong Tỏa nhị kiều, không có đời sống hoạt động bên ngoài cũng chẳng có đời sống nội tâm bên trong, sống lẫn vào đồ vật, bị đồ vật hóa và “chết cũng là mục đích” thì cuộc sống của họ kéo dài một trăm năm, chứ có kéo dài một nghìn năm cũng chẳng có ích gì, chẳng để làm gi.
Và chăng, Xuân Diệu đâu có nói chỉ cần sống một phút chất lượng thôi là đủ. Ông đã đặt quan niệm sống của mình trong tình thế bất đắc dĩ nhất, buộc phải lựa chọn một trong hai khả năng. Điều đó là rất đúng bởi vì bản chất của mọi hiện tượng, qui luật, qui luật và cả còn người chí bộc rõ nhất trong hoàn cảnh điển hình nhất. Cũng như khi người ta nói: sinh ra trên đời, ai mà chẳng sợ chết; nhưng chết vinh còn hơn sống nhục.
Về mặt đúng sai, thiết nghĩ bài thơ của Xuân Diệu không còn gì phải bàn đến nữa. Ta chỉ nói về một số ít điểm hạn chế của nó thôi. Để trả lời cho câu hỏi “’ như thế nào thì đúng nhất’’, quan niệm Xuân Diệu thể hiện qua bài thơ.
Trong bài Giục giã là không sai, nhưng nó có vẻ chung chung quá. Ta thấy yêu đời hơn, ta muốn sống có ý nghĩa. Song, một vấn đề giục giã: Sống như thế nào thì mới có ý nghĩa? Bản thân hai câu thơ của Xuân Diệu không giải quyết được vấn đề này. Có lẽ, trong khuôn khổ câu chữ hạn hẹp, không có điều kiện thể hiện quan niệm sống của mình.
Vậy, trong suy nghĩ của ông lúc bấy giờ, sống hết mình có nghĩa là gì? Ta hãy thử tìm hiểu điều này qua các sáng tác thơ văn của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám – những tác phẩm đã chứng minh và cụ thể hóa quan niệm sống kia.
Điều đầu tiên là nhận thấy, cũng như đã khẳng định khi phân tích bài Vội vàng là trong quan niệm của Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Khát vọng tận hiến cho đời chỉ là tận hiến tình yêu. Trong xã hội bị áp bức đen tối bấy giờ, chỉ có tình yêu lứa đôi và cảnh sắc ngoại giới thôi thì không thể xoay chuyển gì được. Xuân Diệu khao khát giao cảm với đời nhưng có phải đời lúc nào cũng dang tay chờ đón, đáp lại ông đâu. Không ít lần, Xuân Diệu đã phải cay đắng thốt lên:
Lòng ta là một cơn mưa lũ,
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biết tha hồ rơi hạt ngọc,
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
Niềm khát sống bắt nguồn từ cái tôi và là một mặt trong mâu thuẫn lớn lao của cái tôi ấy. Cho nên, dù thế nào nó cũng không thể tách rời mặt thứ hai kia: đó là nỗi cô đơn, hoài nghi, bế tắc trước cuộc đời. Đây là một bi kịch mang tính chất xã hội bởi lẽ xã hội tư sản thổi phồng cá nhân và những khát vọng cá nhân đặc biệt là khát vọng hưởng thụ, nhưng lại quay lưng với những khốổđau bế tắc của cá nhân.
Do đó, xét quan niệm sống này trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ và trong môi tương quan với những mâu thuẫn khác của đời sống tinh thần con người thì trong một phương diện nào đó, say sưa chẳng thể an ủi dài lâu.
Sau những giờ phút mê mải với tình yêu, Xuân Diệu lại phải đối mặt với những bế tắc cô đơn của chính mình, nên ông sợ hãi tương lai: “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai”. Cũng vì thế mà thời gian trong mắt Xuân Diệu chỉ là sự vận động đến lụi tàn. Cái chung chung, khái quát thực ra lại là may mắn lớn cho hai câu thơ trong bài Giục giã này.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Hai câu ấy chỉ giữ lại phần chân lý tinh hoa nhất trong quan niệm sông của Xuân Diệu lúc đó, nó đúng đắn hoàn toàn. Còn những cái cụ thể ư? Người đời cứ việc hiểu theo ý mình. Tư tưởng của con người không ngừng phát triển. Cũng như Xuân Diệu ấy, nhưng khi đi theo cách mạng, cuộc đời ông chuyển sang bức tranh mới, tư tưởng quan niệm của ông cũng có những thay đối lớn lao. Chỉ có một điều duy nhất không hề thay đổi đó là ông vẫn sông hết mình.
Điểm khác là khái niệm tận hiến không giới hạn trong tình yêu nữa mà bao gồm cả sự lao động sáng tạo, đem những tinh túy của mỗi cá nhân ra góp vào đời, tô đẹp cho cuộc sống ngày một đẹp tươi. Con người không chỉ sống vì mình mà sông vì người khác. Phải hiểu “sống huy hoàng” theo nghĩa mới này thì mới đúng. Như vậy, trong thời đại ngày nay, quan niệm sống của Xuân Diệu mới thực sự phát huy đến mức cao độ tác dụng của nó đôi với con người.
Các Mác từng nói “Tình yêu rất nhiều nhưng cũng vĩ đại nhất là tình yêu cuộc sống”. Chứa đựng hạt nhân của sự vĩnh cữuu này, quan niệm sống của Xuân Diệu trong bài thơ Giục giã không bao giờ bị vùi vào quên lãng, nó mãi là một trong những kim chỉ nam của con người, nhất là những người trẻ tuổi đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Nó chỉ cho con người ta biết phải làm gi. Bắt đẩu là một niềm ham sông dây lên trong lòng họ…
Đặc điểm:
- Bài thơ được viết theo thể 8 chữ, nhịp điệu thơ đa dạng.
- Tác giả chủ yếu gieo vần chân.
- Hình ảnh thơ sinh động, giàu sức gợi cảm, gợi hình.
- Các động từ mạnh mẽ đã tạo ra nhịp điệu hối hả, cuống quít khiến cho bài thơ mang âm hưởng như một lời hiệu triệu, một sự giục giã của Xuân Diệu với những con người trẻ.
TK:
Để giải bài toán này, ta có thể sử dụng định luật Ohm và định luật Kirchhoff.
1. **Định luật Ohm:** Định luật này nói rằng mối quan hệ giữa điện áp (\(V\)), dòng điện (\(I\)), và điện trở (\(R\)) trong mạch điện là \(V = IR\).
2. **Định luật Kirchhoff:**
- **Định luật tổng điện áp (Định luật thế):** Tổng điện áp trong một vòng dây đóng vai trò tổng điện áp giảm đi qua các điểm của mạch là 0.
- **Định luật tổng dòng điện (Định luật dòng):** Tổng dòng điện đi vào một nút (điểm kết nối) trong mạch bằng tổng dòng điện ra khỏi nút đó.
Ta có một mạch điện gồm một nguồn điện có suất điện động \(E\) và một điện trở trong \(r\) nối tiếp, sau đó mạch ngoài có hai điện trở \(R_1 = 40 \Omega\) và \(R_2 = 120 \Omega\) mắc song song.
Gọi \(I\) là cường độ dòng điện trong mạch. Ta biết rằng \(I_1 = 0.25 \text{ A}\) là cường độ dòng điện qua \(R_1\).
Đầu tiên, ta cần tìm suất điện động của nguồn \(E\). Áp dụng định luật tổng điện áp (Định luật thế), tổng điện áp giảm qua mạch là \(0\). Vậy:
\[E = IR + IR_1 = I(r + R_1)\]
\[E = I(2 + 40) = 42I\]
Tiếp theo, ta cần tìm cường độ dòng điện qua \(R_2\). Vì \(R_1\) và \(R_2\) mắc song song, nên tổng điện áp giảm qua \(R_1\) và \(R_2\) là \(E\). Sử dụng định luật Ohm cho \(R_2\), ta có:
\[E = IR_2\]
\[I = \frac{E}{R_2} = \frac{42I}{120}\]
\[I = \frac{7}{20} \text{ A} = 0.35 \text{ A}\]
Vậy, suất điện động của nguồn là \(E = 42 \text{ V}\) và cường độ dòng điện qua \(R_2\) là \(0.35 \text{ A}\).
TK:
Hormone làm thay đổi cơ thể và sinh lý của cô gái ở thời kì dậy thì là estrogen và progesterone.
Estrogen là hormone chính gây ra sự phát triển của các đặc tính phụ nữ như sự phát triển của vú, mọc lông nách và lông mu, và sự phát triển của cơ thể. Progesterone cũng có vai trò quan trọng trong quá trình chu kỳ kinh nguyệt và sự chuẩn bị của cơ thể cho khả năng mang thai.
Trong quá trình dậy thì, sự sản xuất của estrogen và progesterone tăng lên đột ngột, dẫn đến sự phát triển của cơ thể, sự trưởng thành của các cơ quan sinh dục nữ và sự chuẩn bị cho khả năng sinh sản.