Câu 9. Câu văn sau sử dụng biện pháp tu từ nào? Chỉ ra và nêu tác dụng. (1 điểm)
Khi đám cưới, lúc tang ma, trong các dịp lễ hội người dân lại ăn trầu cau và vôi để mọi người nhớ mãi bài học về tình nghĩa vợ chồng, anh em.
Câu 10. Viết đoạn văn từ 5 - 7 câu trình bày những bài học em rút ra được từ câu chuyện “Sự tích trầu cau”. (1 điểm)
Bài đọc:
SỰ TÍCH TRẦU CAU
Ngày xưa, có hai anh em nhà kia, đều chăm chỉ ngoan ngoãn, chẳng may bố mẹ mất sớm, họ đành sống nương tựa vào nhau. Họ giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không ai có thể phân biệt được.
Người anh ham học, nghe tiếng một người thầy đức độ nên tìm tới xin thầy thu nhận làm học trò. Người em thấy anh đi học cũng xin được theo học cùng. Người thầy xúc động trước lòng hiếu học, đồng ý nhận cả hai, nuôi ăn học như con trai trong nhà.
Thầy có một cô con gái đã tới tuổi lấy chồng. Cả hai anh em đều ngầm để ý đến cô. Về phần cô gái, nàng quý mến cả hai anh em từ lâu. Nhưng vì hai anh em quá giống nhau, nàng không phân biệt nổi đâu là anh, đâu là em nên nghĩ ra một cách để thử.
Một bữa, khi hai anh em đều đói, nàng dọn cháo cho họ ăn. Nhưng nàng chỉ bày ra duy có một bát cháo với một đôi đũa. Đứng núp sau cánh cửa, nàng thấy một người nhường bát cháo cho người kia. “Người biết nhường nhịn kia chính là anh”, nàng mừng rỡ quả quyết. Từ đó, nàng tìm cách gặp gỡ riêng người anh. Tình yêu giữa họ bắt đầu đâm chồi, nảy lộc.
Biết chuyện, cha mẹ nàng vui mừng vì con gái tìm được người như ý, gả nàng cho người anh, lại tặng riêng một căn nhà cho đôi vợ chồng trẻ. Người em cũng sống cùng anh chị.
Từ ngày kết hôn, người anh ít quan tâm tới em hơn: hằng ngày, anh chỉ chuyện trò, vui đùa cùng vợ. Người em thấy thế thì rất tủi thân: chàng thường hay cáu gắt, buồn bực, nhưng người anh vẫn không để ý.
Một ngày nọ, hai anh em đi làm đồng. Xong việc, người em về nhà trước. Khi người em về tới sân, người vợ từ trong bếp thoáng nhìn tưởng là chồng mình, vui sướng chạy ra ôm chầm lấy.
Đúng lúc đó, người anh bước vào. Nhìn thấy người anh, người vợ biết mình lầm, vội buông người em ra. Tuy không ai nói ra câu nào, nhưng người vợ và người em đều rất xấu hổ.
Từ hôm đó, người anh sinh lòng ghen tức, nghi ngờ, càng trở nên lạnh nhạt với em trai. Dù ba người vẫn sống trong một nhà nhưng người anh thậm chí chẳng buồn nói với em lấy một lời.
Người em hổ thẹn vì chuyện chị dâu nhận lầm, vừa buồn rầu vì anh không còn thương yêu mình nữa. Chàng thao thức nhiều đêm, rồi cuối cùng quyết định bỏ đi. Chàng đi mãi, đi mãi, cho tới khi gặp một dòng sông lớn mênh mang, không thể vượt qua được. Chàng nhìn quanh, không thấy một bóng người hay chim thú. Chẳng biết phải đi đâu, chàng ngồi xệp xuống, òa lên khóc.
Chàng khóc ròng rã mấy ngày đêm, rồi chết bên bờ sông, biến thành một tảng đá lớn.
Sau khi người em bỏ đi mãi không thấy trở lại, người anh không lúc nào không tự trách mình. Chàng nuối tiếc những ngày anh em còn hòa thuận, xấu hổ vì đã cư xử tệ bạc với em. Chàng bèn để vợ ở nhà, khăn gói đi tìm em. Chàng vừa đi vừa dò hỏi, cuối cùng cũng tới bờ sông kia. Chàng sững sờ nhìn dòng nước lớn, loay hoay không biết cách nào để vượt qua. Bất lực, chàng đành ngồi dựa vào tảng đá lớn mà khóc vì thương em và ân hận.
Chàng khóc tới khi kiệt sức mà chết. Sau khi chết, chàng biến thành một cây cao, thân đứng thẳng tắp ngay bên cạnh tảng đá.
Người vợ đợi mãi không thấy chồng về thì lo lắng cho chồng, vừa tự trách bản thân đã gây nên chuyện anh em chia cắt. Thế rồi, nàng lên đường đi tìm. Nàng đi mãi, rốt cuộc cũng tìm tới được dòng sông nọ. Nàng đứng đó, tuyệt vọng nhìn con sông lớn, biết mình chỉ có thể đi tới đây là cùng đường.
Nàng ngồi dựa vào gốc cây, gối lên tảng đá. Vừa cô đơn, sợ hãi, vừa không thôi tự dằn vặt, nỗi niềm chồng chất giữa chốn hoang vu, nàng chỉ còn biết khóc sụt sùi.
Nàng khóc tới lúc chết, thân hóa thành một dây leo xanh biếc, lá có hình trái tim, quấn quanh cái cây thẳng tắp kia.
Người dân trong vùng bèn lập miếu thờ. Vua Hùng đi tuần thú qua biết chuyện thì thương cảm lắm. Nhà vua sai lấy lá của dây leo cùng quả của cây cao để ăn thử thì thấy có vị cay, thơm,… lại sai nung đá ra lấy bột để ăn cùng thì thấy trong người phấn chấn, mặt mũi hồng hào, môi đỏ tươi, nhổ ra nước thấy thắm đỏ như máu. Vua biết là vật quý, bèn cho lấy về để gây giống.
Ba thứ ấy chính là cây cau, dây trầu không và vôi. Khi đám cưới, lúc tang ma, trong các dịp lễ hội người dân lại ăn trầu cau và vôi để mọi người nhớ mãi bài học về tình nghĩa vợ chồng, anh em. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt đầu từ đó.
(Sự tích trầu cau, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2010)